Thứ Năm, 25 tháng 4, 2013

Thơ Lý Công Uẩn - Lý Thường Kiệt - THỜI LÝ TRẦN

Lý Thái Tổ (Lý Công Uẩn) - 李太祖

TỨC CẢNH

即景
Tức cảnh
Tức cảnh (Người dịch: (Không rõ))
天為衾枕地為氈,
日月同雙對我眠。
夜深不敢長伸足,
止恐山河社稷顛。
Thiên vi khâm chẩm, địa vi chiên,
Nhật nguyệt đồng song đối ngã miên.
Dạ thâm bất cảm trường thân túc,
Chỉ khủng sơn hà xã tắc điên.
Trời làm màn gối, đất làm chiêú
Nhật nguyệt cùng ta một giấc yên
Đêm khuya chẳng dám dang chân duỗi
Chỉ sợ sơn hà xã tắc nghiêng.




遷都詔
Thiên đô chiếu
Chiếu dời đô (Người dịch:
昔商家至盤庚五遷,周室迨成王三徙。豈三代之數君徇于己私,妄自遷徙。以其圖大宅中,為億萬世子孫之計,上謹天命,下因民志,苟有便輒改。故國祚延長,風俗富阜。而丁黎二家,乃徇己私,忽天命,罔蹈商周之跡,常安厥邑于茲,致世代弗長,算數短促,百姓耗損,萬物失宜。朕甚痛之,不得不徙。

況高王故都大羅城,宅天地區域之中,得龍蟠虎踞之勢。正南北東西之位,便江山向背之宜。其地廣而坦平,厥土高而爽塏。民居蔑昏墊之困,萬物極繁阜之丰。遍覽越邦,斯為勝地。誠四方輻輳之要會,為萬世帝王之上都。

朕欲因此地利以定厥居,卿等如何?
Tích Thương gia chí Bàn Canh ngũ thiên, Chu thất đãi Thành Vương tam tỉ. Khởi Tam Đại chi sổ quân tuẫn vu kỷ tư, vọng tự thiên tỉ. Dĩ kỳ đồ đại trạch trung, vi ức vạn thế tử tôn chi kế; thượng cẩn thiên mệnh, hạ nhân dân chí, cẩu hữu tiện triếp cải. Cố quốc tộ diên trường, phong tục phú phụ. Nhi Đinh Lê nhị gia, nãi tuẫn kỷ tư, hốt thiên mệnh, võng đạo Thương Chu chi tích, thường an quyết ấp vu tư, trí thế đại phất trường, toán số đoản xúc, bách tính hao tổn, vạn vật thất nghi. Trẫm thậm thống chi, bất đắc bất tỉ.

Huống Cao Vương cố đô Đại La thành, trạch thiên địa khu vực chi trung; đắc long bàn hổ cứ chi thế. Chính Nam Bắc Đông Tây chi vị; tiện giang sơn hướng bội chi nghi. Kỳ địa quảng nhi thản bình, quyết thổ cao nhi sảng khải. Dân cư miệt hôn điếm chi khốn; vạn vật cực phồn phụ chi phong. Biến lãm Việt bang, tư vi thắng địa. Thành tứ phương bức thấu chi yếu hội; vi vạn thế đế vương chi thượng đô.

Trẫm dục nhân thử địa lợi dĩ định quyết cư, khanh đẳng như hà?
Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương ba lần dời đô. Há phải các vua thời Tam Đại ấy theo ý riêng tự tiện di dời. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời.

Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương, ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.

Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?


Lý Thường Kiệt - 李常傑
NAM QUỐC SƠN HÀ

南國山河
Nam quốc sơn hà
Sông núi nước Nam
南國山河南帝居,
截然定分在天書。
如何逆虜來侵犯,
汝等行看取敗虛。
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư.
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư.
Sông núi nước Nam vua Nam ở
Sách trời chia bờ cõi rõ ràng
Cớ nào giặc đến chiếm ngang?
Chờ xem bay sẽ tan hàng bại vong.  









Thơ Đặng Dung - Chu Văn An - Hàn Thuyên - Không Lộ Thiền Sư - Thời Lý Trần

Đặng Dung - 鄧容 

感懷
Cảm hoài
Cảm hoài (Người dịch: Hồ Đắc Hàm, Thái Văn Kiểm)
世事悠悠奈老何,
無窮天地入酣歌。
時來屠釣成功昜,
運去英雄飲恨多。
致主有懷扶地軸,
洗兵無路挽天河。
國讎未報頭先白,
幾度龍泉戴月磨。
Thế sự du du nại lão hà,
Vô cùng thiên địa nhập hàm ca.
Thời lai đồ điếu thành công dị,
Vận khứ anh hùng ẩm hận đa.
Trí chúa hữu hoài phù địa trục,
Tẩy binh vô lộ vãn thiên hà.
Quốc thù vị báo đầu tiên bạch,
Kỷ độ Long Tuyền đới nguyệt ma.
Tuổi về già, phải thời bối rối
Cả đất trời một hội mê say
Gặp thời kẻ dở nên hay
Anh hùng lỡ vận, đắng cay trăm phần
Lòng cứu chúa muốn vần trái đất
Gột giáp binh khôn dắt sông trời
Thù còn đầu đã bạc rồi
Mấy phen dưới nguyệt chuốt mài lưỡi gươm



Chu Văn An - 朱文安

江亭作
Giang đình tác
Cảm tác ở đình bên sông (Người dịch: Siêng@viethoc.org)
江亭獨立數歸舟,
風急灘前一笛秋。
斜日吟殘紅淡淡,
暮天望斷碧悠悠。
功名已落荒唐夢,
湖海聊為汗漫遊。
自去自來渾不管,
滄波萬頃羨飛鷗。
Giang đình độc lập sổ quy châu,
Phong cấp than tiền nhất địch thu.
Tà nhật ngâm tàn hồng đạm đạm,
Mộ thiên vọng đoạn bích du du.
Công danh dĩ lạc hoang đường mộng,
Hồ hải lưu vi hãn mạn du.
Tự khứ tự lai hồn bất quản,
Thương ba vạn khoảnh tiện phi âu.
Ðếm thuyền về lại bến bên sông,
Gió lộng vào bờ tiếng sáo trong,
Ngày xế mỏi ca hồng nhạt nhạt,
Trời chiều vời vợi xanh mênh mông.
Công danh quá khứ như là mộng,
Hồ hải chu du một tang bồng,
Tự tại đi về không bó buộc,
Nhìn âu tung cánh lướt trời không





春旦
Xuân đán
Sớm xuân (Người dịch: Nguyễn Tấn Hưng)
寂寞山家鎮日閒,
竹扉斜擁護輕寒。
碧迷草色天如醉,
紅濕花梢露未乾。
身與孤雲長戀岫,
心同古井不生瀾。
柏薰半冷茶煙歇,
溪鳥一聲春夢殘。
Tịch mịch sơn gia trấn nhật nhàn,
Trúc phi tà ủng hộ khinh hàn.
Bích mê thảo sắc thiên như tuý,
Hồng thấp hoa tiêu lộ vị can.
Thân dữ cô vân trường luyến tụ,
Tâm đồng cổ tỉnh bất sinh lan.
Bách huân bán lãnh trà yên yết,
Khê điểu nhất thanh xuân mộng tàn.
Nhà trên núi vắng thảnh thơi,
Cửa phên, nghiên chắn, làn hơi lạnh về.
Trời xanh, cỏ biếc, lê thê,
Ðầu cành hoa đỏ, đầm đìa hạt sương.
Thân cùng mây trắng vấn vương,
Lòng như giếng cổ chẳng thường gợn tăm.
Hương tàn, trà nguội, mấy tuần
Chim khe lảnh lót, kêu xuân, mộng tàn.


Hàn Thuyên 

VĂN TẾ CÁ SẤU

Ngặc ngư kia hỡi mày có hay
Biển Đông rộng rãi là nơi này
Phú Lương đây thuộc về thánh vực
Lạc lối đâu mà lại đến đây
Há chẳng nhớ rằng nước Việt xưa
Dân quen chài lưới chẳng tay vừa
Đời Hùng vẽ mình vua từng dạy
Xuống nước giao long cũng phải chừa
Thánh thần nối dõi bản triều nay
Dấy từ Hải Ấp ngôi trời thay
Võ công lừng lẫy bốn phương tịnh
Biển lặng sông trong mới có rày
Hùm thiêng xa dấu dân cày cấy
Nhân vật đều yên đâu ở đấy
Ta vâng đế mạng bảo cho mày
Hãy vào biển Đông mà vùng vẫy



Không Lộ thiền sư - 倥路禪師

NGƯ NHÀN

漁間
Ngư nhàn
Cái nhàn của ngư ông (Người dịch: Kiều Thu Hoạch)
萬里清江萬里天,
一村桑柘一村煙。
漁翁睡著無人喚,
過午醒來雪滿船。
Vạn lý thanh giang, vạn lý thiên,
Nhất thôn tang giá, nhất thôn yên.
Ngư ông thuỵ trước, vô nhân hoán,
Quá ngọ tỉnh lai, tuyết mãn thuyền.
Trời xanh nước biếc muôn trùng,
Một thôn sương khói, một vùng dâu đay.
Ông chài ngủ tít ai lay,
Quá trưa tỉnh dậy, tuyết bay đầy thuyền.










Thơ văn Ngô Quyền - Pháp Thuận Thiền Sư - TRƯỚC THỜI LÝ

Ngô Quyền - 吳權



預大破弘操之計
Dự đại phá Hoằng Thao chi kế
Bày kế đại phá Hoàng Thao (Người dịch: Huệ Chi, Băng Thanh)
弘操一癡兒耳。將兵遠來,士卒疲弊,又聞公羨死,無內應,氣已先奪。吾眾以力待疲,破之必矣。然彼利於艦,不先為之備則勝負之形未可知也。

若使人於海門潛植大杙,銳其首,冒之以鐵,彼船隨潮漲入杙內,然後我易制。無有出此者。
Hoằng Thao nhất si nhì nhĩ. Tương binh viễn lai, sĩ tốt bì tệ, hựu văn Công Tiễn tử, vô nội ứng, khí dĩ tiên đoạt. Ngô chúng dĩ lực đãi bì, phá chi tất hỹ. Nhiên bỉ lợi ư hạm, bất tiên vi chi bị tắc thắng phụ chi hình vị khả tri đã.

Nhược sử nhân ư hải môn tiềm thực đại dặc, nhuệ kỳ thủ, mạo chi dĩ thiết; bỉ thuyền tuỳ triều trướng nhập dặc nội, nhiên hậu ngã dị chế. Vô hữu xuất thử giả.
Hoằng Thao chỉ là một đứa trẻ ngốc. Đem binh từ xa đến, quân lính mỏi mệt sẵn, lại nghe tin Công Tiễn đã chết, không có ai làm nội ứng, thì khí phách đã nhụt trước rồi. Quân ta đem sức khoẻ địch với quân mỏi mệt chắc chắn là phá được. Tuy nhiên chúng có ưu thế về thuyền, nếu ta không tổ chức phòng bị trước thì xu thế được thua chưa thế nắm chắc.

Nay nếu sai người đem cọc lớn, vạt nhọn đầu, bịt sắt, đóng ngầm trước ở cửa biển; thuyền của chúng sẽ theo nước triều lên mà tiến vào trong hàng cọc; bấy giờ ta sẽ chế ngự. Không kế gì hơn kế ấy cả.



Pháp Thuận thiền sư - 法順禪師 

鵝鵝兩鵝鵝
Nga nga lưỡng nga nga
Đôi ngỗng (Người dịch: (Không rõ))
鵝鵝兩鵝鵝,
仰面向天涯。
白毛鋪綠水,
紅棹擺青波。
Nga nga lưỡng nga nga,
Ngưỡng diện hướng thiên nha.
Bạch mao phô lục thuỷ,
Hồng trạo bãi thanh ba.
Song song ngỗng một đôi
Ngưỡng mặt ngó ven trời
Lông trắng phô dòng biếc
Sóng xanh chân hồng bơi.


Về bài thơ này có câu chuyện như sau: năm Đinh Hợi 987, nhà Tống sai Lý Giác sang Việt Nam, thiền sư Pháp Thuận đón tiếp. Có lần Lý Giác tuỳ cảnh ngâm 2 câu thơ đầu "Nga nga lưỡng nga nga, Ngưỡng diện hướng thiên nha" và Pháp Thuận đã tiếp ngay hai câu sau của bài thơ này "Bạch mao phô lục thuỷ, Hồng trạo bãi tranh ba".

CÁCH XƯNG HÔ

Tất-tần-tật khác biệt thú vị giữa cách xưng hô trong gia đình và họ hàng ở hai miền Nam - Bắc thân thương!



CHỊ GÁI CỦA BỐ GỌI LÀ BÁ 
CHỊ GÁI CỦA MẸ GỌI LÀ BÁ 


 
CÁCH XƯNG HÔ
giadinh_vnCách xưng hô trong gia đình, theo vai-vế
 
Xưng
là tự cho mình một chỗ đứng trong đại gia đình (chứ không phải gia tộc ). 
 Còn là cho người đối thoại một chỗ đứng trong cùng đại gia đình đó.
Xưng thì bắt buộc phải xưng cho chính mình, chứ không thể nói thay cho người khác được. Tuy nhiên trong trường hợp khó khăn thì có thể nói thay cho bút hiệu, danh xưng hay tên của tổ chức, của hội đoàn. Tức là ta xưng thay cho người vắng mặt; mà người vắng mặt đó có thể lại là chính ta.
Còn thì có thể nói thay cho người khác được, nhưng bắt buộc phải là người có vai-vế thấp hơn ta, hay ngang vai với ta là cùng. Tức là Hô thay cho con, cho cháu hay cho em, chứ không được quyền Hô thay cho Anh Chị hay cho Cha Mẹ; như vậy là hỗn láo, xấc xược, vô lễ .




Cách Xưng và Hô được phân định theo 3 tiêu-chuẩn sau đây: 
1- Tình cảm,
2- Học thức (hiểu biết về đạo làm người)
3- Tuổi tác
Cái khó là làm sao dung hòa được 3 yếu tố với nhau trong trường hợp xung khắc rõ rệt.
Tỷ dụ một bà 50 tuổi thất học nói chuyện với một cậu Tiến sỹ 20 tuổi trong tình cảm thân thuộc. Đứng về tuổi tác thì bà ta bằng vai mẹ cậu; nhưng đứng về học vấn thì bà ta chưa xứng đáng làm học trò của cậu. Còn về chức vụ ngoài đời thì bà ta thua xa, thuộc loại đi lâm đi ở chẳng hạn. Xưng hô làm sao để thấy mình vẫn trọng cậu Tiến Sỹ, nhưng vẫn giữ được vai-vế tuổi-tác của mình. Nhìn theo con mắt Tây Phương thì tưởng là bất bình đẳng, rườm-rà, lép vế, phân biệt giai cấp, mầt nhân vị....nhưng nhìn dưới lăng kính xã hội Việt thì lại là bình đẳng thân thương tột độ.
Để có cái nhìn tổng quát thì chúng ta hãy tạm nhận danh xưng của các vai-vế trong gia-đình theo biểu đồ đính kèm cho thuần nhất. Sau đó mới nói đến nguyên tắc đặt mình và người đối-thoại với mình vào vị-trí nào cho đúng cách.
Các vai-vế trong gia đình được thiết lập một cách rõ-ràng trong biểu-đồ vai-vế và đừng lẫn bên nội với bên ngoại, vai trên vai dưới, trai với gái, dâu với rể.
 Chữ viết trong khung là vai-vế của người đó đối với hàng con cháu. Viết đậm là người cùng huyết thống, còn gạch đít là người ngoài nhưng do kết duyên mà thành người nhà; gọi chung chung là thông gia (nghĩa là do cưới xin mà 2 bên trở nên thân thiết như người nhà. Chữ thông có nghĩa là nối liền với nhau).
 Chữ viết ngoài khung là vai-vế của người đó đối với hàng Cha Mẹ, cùng máu-mủ thì gọi là ruột thịt; còn do cưới gả mà ra thì gọi là dâu hay rể. Thuộc bên Vợ hay bên Chồng thì thêm chữ Vợ hay Chồng vô.
 Bình thường thì người ta chỉ hô vai-vế chính và bỏ chữ Nội Ngoại, Dâu Rể hay Vợ Chồng đi; chỉ thêm những chữ đó vào khi cần minh định rõ ràng mà thôi.
Khi xưa Vợ Chồng gọi nhau bằng Mình với Tôi, chữ Mình có nghĩa là thân thể. Coi nhau như một phần thân thể của mình vậy. Thiết nghĩ vợ chồng gọi nhau bằng Mình với Ta thì không có gì có thể khăng-khít và thắm thiết hơn.
- Gạch nối để chỉ liện hệ ruột thịt, gạch chấm để chỉ thông gia. Khung đơn để chỉ ruột thịt, còn khung kép để chỉ do hôn nhân mà thành người trong nhà [1].
vaive_tronggiadinh_vn
Nguồn gốc của cách xưng hô trong gia đình
Gia đình gồm 3 thế hệ:
*  Thế hệ ông bà, thuộc về hàng trên (vai trên).
*  Thế hệ gốc là Cha Mẹ, thuộc về hàng Cha Mẹ, hàng gốc (bằng vai).
*  Thế hệ Con cái, thuộc về hàng dưới (vai dưới).
Đại gia đình có nghĩa là gia đình nhiều người, chứ không phải là nhiều thế hệ.
Nhiều hơn 3 thế hệ liên tục thì gọi là Gia Tộc. Tộc có nghĩa là dòng họ, cùng chung một tổ tông mà ra và còn được gọi là tộc ho [2].
 Chữ Đồng Bào có nghĩa là cùng một bọc trăm trứng mà ra. Đồng là cùng và bào là bọc. Nghĩa là 100 con cùng cha cùng mẹ lại sinh nở cùng một lúc đã nói lên tinh thần bình đẳng tuyệt đối rồi. Mỗi con có một cá tính riêng nên tạo thành 100 giống, mà tất cả đều cùng một gốc Việt mà ra [3].
Trường hợp thông thường
A/- Đối với người trong họ
1)-Tuổi tác cân xứng
Tuổi tác cân xứng thì bắt buộc phải theo cách xưng hô trực ý. Nghĩa là vai-vế ở đâu thi xưng hô ở đó. Còn bé thì gọi nhau bằng anh xưng em hay chị xưng em. Nhưng khi lớn lên, ở tuổi có con cái thì hô thay cho con mình. Nhưng xưng thì xưng theo vai vế của chính mình. Tỷ dụ người anh kêu người em ruột là em xưng anh khi chưa lập gia đình. Đến khi thành gia thất thì gọi nhau thay cho con mình. Lúc đó người anh gọi em mình bằng Chú (tức là chú của con tôi) và xưng là anh hay tôi. Còn người em thì gọi anh mình là Bác xưng em (chứ không phải là tôi), nếu xưng tôi là hỗn, chơi trèo. Còn người chị lúc đó kêu em mình là Cậu và xưng chị hay tôi.
Khi có gia thất thì bố mẹ vẫn có thể gọi con mình bằng con xưng là bố hay mẹ; nhưng thường thường vì trọng con mình nên gọi thay cháu và xưng là tôi. Tức gọi con mình bằng Chú, bằng Cô, bằng Cậu hay bằng Dì; chứ không gọi bằng Bác. Nếu gọi bằng Bác tức là tâng con mình lên và giảm tình thân máu mủ đi. Ngày xưa còn lấy tên của cháu đích tôn để gọi cho bố mẹ. Tỷ dụ người con đầu lòng là Tuấn thì gọi bố mẹ nó là ông Tuấn, Bà Tuấn, trong trường hợp này thì xưng tôi. Đây là trường hợp trọng con mình khi nó đã có địa vị trong xã hội. 
Tỷ dụ con mình làm quan, chức trọng quyền cao, ra ngoài mọi người kiêng nể thì không thể gọi để làm mất thể diện của con mình đi được. Con mình có nên ông nên bà thì mình mới lên chức cụ được. Còn con mình là thằng là con thì mình cũng chẳng vẻ vang gì. Vậy thì gọi đúng tư thế của con mình trong xã hội tức là tự mình trọng mình đó. Còn gọi quá lố là tâng bốc khôi hài, mà dân ta gọi là "bốc thối".
Vợ chồng lúc này không gọi nhau bằng Mình với Ta, hay Anh với Em nữa mà gọi nhau bằng Bố Nó, Mẹ Nó và xưng là Tôi, chứ không phải Ta. Chữ Mình thì đi với chữ Ta là ngang nhau, Còn chữ Bố, Mẹ mà đi với Ta là trịch thượng. Tức là bố của con tôi, hay mẹ của con tôi ơi! Hoặc Bố Tuấn hay Mẹ Tuấn ơi!
2)- Tuổi tác quá chênh lệch
Trường hợp này bắt buộc phải gọi thay cho con. Như vậy vẫn trọng vai trên của người đối thoại, mà vẫn giữ được vai vế tuổi tác của mình.
Tỷ dụ một anh 25 tuổi lại là chú ruột của một bà 50 tuổi, có con lớn hơn mình. Nếu gọi nhau bằng chú cháu thì không hợp với tuổi tác, và bất tiện. Vậy thì gọi thay cho người khác là tiện nhất.
Về phần anh chàng thì bắt buộc anh ta phải gọi bà kia bằng Bác (hay là Bà thì hơi kém thân tình) và xưng là tôi. Bác ở đây là chị của con tôi, còn xưng tôi là giữ nguyên vai chú ở hàng trên. Về phần bà kia thì phải gọi cậu này bằng ông, có nghĩa là ông của con tôi và xưng là Cháu. Vai cháu ở đây có 2 nghĩa: đó là vai-vế thật của bà ta mà cũng có thể là xưng cho con mình. Là vì như trên đã nói là bố mẹ đôi lúc lấy tên con làm tên mình. Đây là một điều tế nhị trong cách xưng hô. Vẫn trọng người đối thoại, mà vẫn giữ được thể diện về tuổi tác của mình. Còn không biết thì thấy là rườm-rà lôi-thôi, rắc-rối khó hiểu.
 B/- Đối với người ngoài 
Đối với người ngoài thì tùy theo tình cảm mình dành cho họ, cộng với tuổi tác và chức vụ hay vị thế của họ trong xã hội (nói chung là sự hiểu biết) mà đặt họ cho đúng chỗ vai-vế trong gia đình. Cách xưng hô này không cố định; tùy theo môi trường mà áp dụng.
 1/- Đối với Thày học:
Thày ở đây là sư phụ, tức ông Thày dạy ta đạo làm người (Việt Học). Còn người dạy nghề thì gọi là sư huynh (tức là đàn anh). Ở đây ta gọi sư phụ hay sư huynh đều là Thày cả. Ngoại trừ Huấn Luyện Viên thì không thể bốc thơm họ lên làm bậc Thày được. Nếu ta bốc thơm thì lập tức họ sẽ phải từ chối chức vị đó, còn im lặng là họ tự kiêu cho mình xứng đáng với ngôi vị đó.
Thày là người giữ chức vụ dạy ta nên người, như vậy phải ngang với bố mình. Đứng về phương diện tinh thần thì đứng trên Bố, vì dân Việt trọng nghĩa.
Vì thế nên gọi Thày xưng con. Khi xưa chỉ có đàn ông mới giữ chức vụ làm Thày, vì vậy nên Vợ của Thày thì gọi là Cô; nghĩa là em gái (tinh thần) của bố mình. Ngày nay người đàn bà cũng giữ chức vụ dạy ta nên người nên gọi luôn là Cô, hay là Cô giáo. Chữ Cô khởi thủy là em gái của bố mình chứ không phải là một chức vụ dạy dỗ người khác, vì lúc đó phái nữ không giữ chức vụ này. Nay đáng lý phải gọi là ông Thày và bà Thày mới đúng; nhưng gọi như vậy thì trối tai, khó nghe.
Vì vậy nên hô chức Thày hay Cô thì phải xưng là con, chứ không phải là cháu. Thày và Cô là Bố và Mẹ về tinh thần. Bố và Mẹ chỉ có một, không ai có thể thay thế ngôi vị đó được.
*  Trường hợp học viên ít tuổi, đáng tuổi con cái thì không có vấn đề chi cả. Nay tuổi tác bất tương xứng thì phải gọi khác đi; miễn sao vẫn trọng Thày, trọng Cô mà vẫn giữ được tư thế của mình.
- Trường hợp một cô sinh viên 22 tuổi đi học ông Thày 28 tuổi, thì cô không thể nào xưng con hay xưng em được; mà bắt buộc cô ấy phải gọi là Thày và xưng là Cháu. Thày ở đây vẫn là ngang với Bố mình, nhưng tuổi chỉ đáng làm em bố mình thôi. Nếu không có sự liên hệ học vấn thì cô đó gọi ông kia là Chú xưng cháu hay Anh xưng Tôi. Trong trường hợp này gọi Chú thì xấc, mà gọi Anh thì hỗn. Còn xưng là Em thì có vẻ lẳng-lơ.
Còn nếu là cậu sinh viên thì gọi là Thày và xưng là em. Vì tuổi đời thì ông chỉ đáng làm anh tôi, còn học vấn thì ông làm Thày tôi.
Còn ông Thày thì dễ ăn nói, cứ gọi là anh hay chị và xưng tôi. Anh hay chị ở đây có thể là ngang vai với tôi, mà cũng có thể là ngang vai với con tôi (dù tôi chưa có con).
- Õ Bây giờ trường hợp một anh sinh viên 28 tuổi, quân nhân đi học văn hóa bà Thày 25 tuổi; trường hợp này anh ấy phải gọi bà ta là Cô (Cô ở đây là bà Thày, tức Cô giáo) và xưng Em nếu cấp bậc của anh thấp; còn không thì xưng tôi nếu cấp bậc của anh cao trong xã-hội.
- Trường hợp khó xử: Một anh Trung Úy 22 tuổi đi làm giáo sư huấn luyện Tú Tài cho những cô nữ sinh ở lứa tuổi 18. Đối với anh thì dễ, anh cứ gọi là chị và xưng là tôi. Chị ở đây là chị của em tôi, chứ không phải chị của tôi. Nếu là chị của tôi thì bắt buộc phải xưng là em. Còn đối với các nữ sinh thì tùy sự liên hệ gia đình với giáo sư mà xưng cho đúng cách. Hô thì gọi là Thày rồi, còn xưng thì mỗi cô xưng một cách.
- Nếu không liên hệ chi thì xưng cháu.
- Nếu ông bố là vị chỉ-huy trực tiếp của anh trung Úy thì xưng là tôi.
- Nếu ông anh là bạn đồng ngũ thì xưng là em.
- Nếu ông bố là thuộc cấp của vị Trung Úy thì xưng là con.
Nói tóm lại: Cách hô thì tương đối dễ gọi, vì nghi hoặc thì cứ tâng người ta lên. Nếu quá cao thì người ta sẽ cải chính, còn quá thấp thì người ta bắt bẻ và mình xin lỗi vì sơ ý. Còn cách xưng thì rất tế nhị. Nếu xưng đúng thì người ta trọng mình, còn xưng sai thì người ta coi thường chứ không ai bắt bẻ cả. Vì vậy nên khi đến một nơi không biết người đó là ai thì phải hỏi xem gọi bằng gì? Không thể gọi chồng bằng ông, bằng bác mà gọi vợ người ta bằng chị được. Hoặc gọi con người ta bằng ông, bằng bà mà gọi bố mẹ người ta bằng anh bằng chị thì đâu có được.
 2)-Trường hợp thân tình:
Nghĩa là người ngoài mà mình dành cho họ tình cảm gia đình. Theo mẫu hệ thì đặt họ vào bên Mẹ thì quý hơn là đặt vào bên Cha. Tức cho người ta vị thế là Cậu, là Dì hay là Bác. Nếu để người ta vào vai Cậu hay Dì của con mình thì phải xưng là Tôi hay là Chị là Anh. Vì lúc này mình ở vai Cha Mẹ, cùng hàng với họ nhưng vai trên. Còn để người ta vào vị thế Bác của con mình thì phải xưng là Em hay tôi. Còn gọi cho chính mình thì phải xưng là cháu, thân hơn thì xưng là con.
*  Tỷ dụ Một cậu 25 tuổi đến thăm một cô bạn 22 tuổi tên là Hằng, nếu gặp:
- Em cô ta thì hỏi: Em cho anh hỏi chị Hằng có nhà không? (Chị ở đây là chị của người đối thoại với mình)
- Anh hay Chị cô ta thì hỏi: Thưa Anh (hay Chị) cho em hỏi Hằng có nhà không ạ? Nhớ thêm chữ ạ, và không được dùng chữ chị Hằng hay em Hằng. Vì nếu thêm chữ chị tức là chị của mình, lép vế không được. Còn thêm chữ em thì xấc, vì tự cho mình ngang vai với người đối thoại.
- Bố hay Mẹ cô ta thì hỏi: Thưa bác cho cháu hỏi em (hay chị) Hằng có nhà không ạ? Hay cô Hằng có nhà không ạ? Dùng chữ cô thì có vẻ xa cách. Cô ở đây có nghĩa là em gái mà gọi thay cho con mình. Còn dùng chữ Em là gọi ngay cho chính mình thì thân thiết hơn; dùng chữ Chị thì chỉ mới là sơ giao thôi. Còn bỏ chữ Em hay chữ Chị đi, tức là gọi cộc lốc thì thất lễ với Bố Mẹ cô ta. Tức là ăn nói xếch-mé coi con người ta không ra cái gì cả, vậy thì làm sao hỏi được vợ?.
3)- Trường hợp gia nhân
Người giúp việc trong nhà gọi con của ông bà chủ.
Đứng về tuổi tác thì bà ta ngang hàng với Bố Mẹ cô hay cậu chủ. Nhưng về học vấn thì bà ta chỉ đáng làm học trò thôi; mặc dù cô cậu này lại không phải là Thày dạy người ta.
Về cách Hô thì gọi là Cô, là Chú (tức em của bố mình, hay ngang với bố mẹ của con mình) hay là Cậu là Dì, nhưng phải xưng là Cháu hay Con. Tức gọi theo giá trị tâm linh (sự hiểu biết).
 Trường hợp Biến dạng
Đây là trường hợp đặc biệt, bắt buộc phải dùng đến chức vụ trong xã hội, hay giao tế trong cộng đồng để nói một cách chung chung hợp với tất cả mọi người. 
  A/- Phép xướng danh:
(tức là xưng thay cho tập thể hay dùng chính tên mình để xưng)
 Trường hợp một giáo sư về âm-nhạc lên trình diễn trên sân khấu. Ở dưới cử tọa đủ mọi thành phần, Già có, Trẻ có, Nam có, Nữ có, người đáng bậc Thày có mà học trò của giáo sư cũng có. Về cách hô cho một cộng đồng đa dạng thì dễ. Có thể dùng chữ quý vị, hay toàn thể khán thính giả hay đồng bào thân mến. Đó là gọi theo vị-thế. Còn xưng thì không có vai-vế nào hợp cả. Tức là xưng Tôi, Em, Chị, Con, Cháu đều không tiện cả. Vậy thì bắt buộc phải xưng tên, nghĩa là nói thay cho người vắng mặt.
Tỷ dụ giáo sư có danh hiệu là Xuân Sắc, thành lập ban nhạc là Trâu Đen trong hội Bông Lan chẳng hạn, thì lúc đó bà ta có thể nói: Kính thưa quý vị, Xuân Sắc xin cống hiến nhạc phẩm .. ... hay là ban nhạc Trâu Đen xin hiến quý vị... hay là hội Bông Lan xin giới thiệu với quý vị nhạc phẩm...... do ban nhạc Trâu Đen trình diễn.
B/-Xưng hô theo chức vụ
 Vì nhu cầu của tổ-chức, kỷ-luật gây sức mạnh, nên những người trong quân đội vẫn gọi nhau theo cấp bực. Đây là xưng hô theo đẳng trật Quân Giai trong gia đình binh đội, sống chết có nhau. Có trên có dưới hẳn hoi, nhưng trên dưới theo chức vụ chứ không theo tuổi tác.
C/- Xưng hô theo lý tưởng
 Vì nhu cầu sinh hoạt và đã thề nguyền sống chết có nhau nên những người trong gia đình tinh-thần sau đây gọi nhau bằng danh xưng của ý chí:
 Những người trong cùng một tổ chức chính trị, hay đấu tranh vẫn gọi nhau theo lý tưởng chung của tổ chức như là đồng chí, chiến hữu,....... như vậy là gạt bỏ tuổi tác và vai-vế ra ngoài. Đây là tinh thần bình đẳng, ai cũng giống nhau theo giá trị tinh thần. Tất cả đoàn viên đều thuộc cùng một gia đình; đó là gia đình dấn thân cho hạnh phúc của dân tộc, và họ đã thề nguyện sống chết có nhau.
 Trường hợp đặc Thù của dân Việt

 Vai vế của Bố và Mẹ thì không ai có thể thay thế được. Do đó nếu không phải là bố mẹ ruột (đẻ) thì phải gọi khác đi như là Thày và U, Chú và Thím hay Dượng và Dì, nay gọi là PAPA và MAMAN, tức là giảm thân tình máu mủ đi một bậc.
 Vì thế cho nên khi Mẹ chết, Cha đi lấy vợ khác (gọi là tục huyền. Tục huyền là tiếng Hán, có nghĩa là nối lại giây đàn đã đứt), thì các con gọi người vợ kế của bố bằng Dì và xưng là Con. Có nghĩa là bà chỉ bằng vai em của mẹ tôi thôi. Thay vì xưng bằng Cháu thì xưng bằng Con cho gần hơn. Nếu bà vợ kế cay-nghiệt thì lúc đó gọi là Dì Ghẻ. Chữ ghẻ có nghĩa là lạnh lùng (ghẻ lạnh). Nếu người vợ sau không cưới, tức là sống chung bồ bịch hay vợ hai.... thì các con gọi người này bằng Chị và xưng là Tôi. Có nghĩa là bà chỉ ngang vai với chị cả của chúng tôi thôi. Nhưng đối với các con cùng cha khác mẹ thì vẫn gọi là các em, như em ruột của mình vậy. Không có danh từ EM NỬA Với (demi frère) như Tây Phương, sở dĩ khác là vì những đứa nhỏ này ăn theo dòng Bố nên được thăng chức.
 Còn nếu Cha chết, Mẹ đi lấy chồng thì gọi là tái giá. Tái là trở lại, giá là lấy chồng (tiếng Hán). Thì các con gọi ông chồng mới này bằng Dượng và xưng Con, nếu không thân thì xưng là Tôi. Vai-vế Dượng của ông ta thì không thể bỏ đi được. Sở dĩ gọi bằng Dượng là vì lúc đó mẹ mình bị hạ xuống một bậc thành Dì, tức là em gái của mẹ. Chồng của Dì thì gọi bằng Dượng. Con cái cùng Mẹ khác Cha, nếu thân thiết thì gọi nhau bằng anh (hay chị) và em, còn không thì gọi nhau là Anh (hay Chị) với Tôi. Cách xưng hô này là quyền của con cái, bà mẹ không có quyền bắt chúng phải gọi thế này hay thế khác. Ngược lại khi bố tục huyền thì con vợ trước không có quyền coi con bà kế là người ngoài được. Nhưng nếu là con bà hai hay vợ theo thì người con có quyền khước từ mà người Bố không có quyền ngăn cản.  
Tại sao lễ giáo dân Việt lại như vậy? Theo Mẫu Hệ thì đáng lý phải trọng bên Mẹ hơn bên Cha mới đúng. Cách xưng hô định sẵn như trên được giải-thích như sau:
*  Vì dân ta theo mẫu hệ nên một đôi vợ chồng chỉ có 2 người thôi. Người thứ 3 là người không chính thức. Ngang vai với Bồ Bịch nên không thuộc gia đình, do đó cách xưng hô có khác. Cái khác biệt này là tùy các con thuộc 2 phe tự quyết định lấy, Bố hay Mẹ không có quyền bắt chúng nó phải gọi nhau như thế này hay thế kia được. Chính Bố hay Mẹ đã đi trái phong tục lễ giáo của dân Việt nên không còn quyền gì đối với các con trong vấn đề giao-tế với nhau nữa. Chúng thương nhau thì tốt, còn không thì cũng đành chịu.
(Theo lễ giáo của dân Việt thì trước khi chính thức cưới vợ, người con trai phải đến ở nhà vợ tương lai (gọi là ở rể) 3 năm để Bố Mẹ người con gái xem xét tâm tình trước khi đồng ý gả hay không. Ta gọi là bổ củi 3 năm mới cưới được vợ, coi chuyện Trọng Thủy và Mỵ Châu thì rõ. Tại sao khi Trọng Thủy về thăm Cha ở bên nước Ngô thì Mỵ Châu lại không theo về Ngô mà ở lại nước Việt? Chỉ vì chưa cưới nên chưa có chuyện thuyền theo lái, gái theo chồng. Điểm này chứng tỏ dân Việt quan niệm thành lập gia đình để xây dựng hạnh-phúc lứa đôi trong hạnh phúc chung của gia tộc. Vì thế nên người ta nhìn thẳng vào 2 nhân vật chính, với sự cố vấn của người ngoài cuộc là cha mẹ hai bên. Không có vấn đề sính lễ, thách cưới bán con như người Hán (Tàu) để rồi hành con dâu.
(Người Hán theo Phụ Hệ, nên mọi quyền hành nằm trong tay người chồng. Khi lấy vợ thì phải dẫn cưới do bên đàng gái thách cưới, chữ thách đã có nghĩa là mua bán đổi chác rồi. Do đó khi về nhà chồng thì cô dâu trở nên lép vế: Mất tiền mua mâm thì đâm cho thủng (tục ngữ của mẹ chồng với nàng dâu). Vì quan niệm này nên người vợ là nhân viên thừa hành của người chồng chứ không phải là cộng sự viên như dân Việt. 
Do đó người Hán chúc cô dâu chú rể là Long Phụng giao duyên, sắt cầm hòa hợp. Đó là hạnh phúc lứa đôi một cách ích kỷ, không nghĩ đến người khác. 
Còn dân Việt thì chúc cô dâu chú rể là Rồng Tiên song hiệp. Có nghĩa là vợ chồng hợp lực âm dương (bổ xung cho nhau) để xây dựng hạnh phúc cho mình và cho người xung quanh (hai họ). Muốn có hạnh phúc trọn vẹn thì hạnh phúc của lứa đôi phải nằm trong hạnh phúc của 2 bên thông gia. 
Giao lưu văn hóa Việt Hán
Khi bị người Hán thống trị thì nẩy sinh ra tư tưởng lấy vợ hai cho chồng để chứng minh sự giàu có của mình. Khôi hài ở chỗ là chính bà vợ Cả đi chọn và cưới bà vợ Hai cho chồng, chứ ông chồng không được quyền tự chọn lấy vợ bé như ở bên Tàu.
Tại sao? Người Hán quan niệm rằng lấy vợ là một gánh nặng phải nuôi, nên càng nhiều vợ thì chứng tỏ người đàn ông càng lắm tài. Do đó chính người chồng tự ý đi chọn vợ bé cho mình, sau đó thông báo để bà Cả biết. Lẽ dĩ nhiên là mỗi bà một dinh cơ do ông chồng cấp phát.
 Còn ở Việt Nam, vì bắt chước kẻo sợ người đời (sống trong nô lệ Tàu) chê là ghen, là nghèo nên bà vợ Cả phải đi mua bà vợ Hai về cho Chồng ; đôi khi bà bé chả sơ múi chi cả. Đó là cái tinh khôn của bà vợ Cả.
 Chém cha cái kiếp lấy chồng chung,Kẻ đắp chăn bông, kẻ lạnh-lùng.Năm thì mười họa chăng hay chớ,Một tháng đôi lần, có cũng không. 
 (Hồ Xuân Hương)
Phần lớn những bà bé mua về đều thuộc loại gia đình nghèo đói, thấp hèn phải cắn răng bán con để cứu gia đình. Vì thế nên con bà Cả gọi bà hai là Chị.
Còn một điểm đáng lưu ý nữa là phong tục Tàu không có chuyện tái giá của người đàn bà góa, vì khi cưới cha mẹ đã thách rồi nên bà thuộc sở hữu của nhà chồng. Do đó phải ở vậy thờ chồng và nuôi con. Còn phong tục Việt thì khác hẳn. Hết ba năm tang chế: Lạy anh, em đi lấy chồng. Nghĩa là sau 3 năm mãn tang (hết tang) chồng thì người đàn bà góa được quyền bước thêm bước nữa mà xã hội hoàn toàn đồng ý và cho đó là quyền sống của con người phải được tôn trọng. Luật Hồng Đức có bảo vệ quyền này của người đàn bà góa.
 Tại sao lại 3 năm tang chế mà không phải là 3 tháng như Tây Phương hay 4, 5 năm chi đó? Tại sao các cụ thời thượng cổ lại có lý do rất chánh đáng này, mà bây giờ vẫn còn thấy hợp lý? Chỉ vì tổ tiên chúng ta không những coi trọng gia đình và gia tộc mà còn tôn trọng quyền sống tự do của con người nữa.
Hai cái tương khắc với nhau (cộng đồng và cá nhân, tình và lý) ấy thế mà người xưa đã dung hòa được thì không phải là chuyện dễ. Âu đây cũng là một niềm hãnh diện về nền văn minh tinh thần của dân ta vậy.
Thật vậy, khi người chồng nằm xuống, có thể lúc đó bà vợ vừa mới mang thai. Cái thai đó là thai của gia đình nhà chồng chứ không phải của riêng bà vợ. Vì thế phải đợi 9 tháng 10 ngày sinh nở xong xuôi thì mới tính chuyện bước đi bước nữa được. Khi sinh nở xong, vì nhu cầu bú mớm của đứa bé nên bà phải hy-sinh tình cảm riêng tư để nuôi con cho đến khi thôi bú, tức là đứa con đầy 2 tuổi thì mới dọng-dẽo ai nuôi cũng được. Lúc này thì bà có thể trao con cho nhà chồng nuôi và bước đi bước nữa (nếu bà muốn). Hơn nữa, nếu quả thực bà yêu chồng thì 3 năm mới chỉ là thời gian tối thiểu để bà dứt tình chăn gối.
Cách giải quyết này không phải là trường hợp bắt con như Tây Phương nghĩ. Thực vậy, đây không những là vì quyền lợi của đứa bé mà còn là quyền lợi của ngay chính người mẹ nữa. Khi bà bước đi bước nữa thì bà không phải là người trong gia tộc nhà chồng nữa. Bà vẫn có quyền về thăm con cái với tình mẹ con trọn vẹn, nhưng bà không được quyền nuôi nấng và dạy dỗ nó nữa. Phần nuôi nấng và dạy dỗ chúng thuộc nhiệm vụ của nhà chồng. Chết Cha còn Chú, vắng Mẹ bú Dì. Còn về phần bà vợ góa thì lúc đó bà được tự do như con gái, không bị ràng buộc về tinh thần cũng như vật chất với các con đời chồng trước. Tuy nhiên cũng có cái thiệt là mẹ con không được chung sống hàng ngày với nhau. Nhưng làm sao làm hài lòng được tất cả các đòi hỏi tương khắc với nhau?
 Lý luận Tây Phương là lý luận theo tình cảm thiển cận. Bây giờ tỷ dụ con đầu lòng là con gái kém mẹ 18 tuổi. Nếu Mẹ nuôi thì cô con bắt buộc phải ở với ông Dượng. Đến tuổi dạy thì lại nhập-nhằng với ông Dượng, lúc đó thì thật là khó xử cho bà. Ở bên Pháp trường hợp này đã từng xẩy ra và đưa đến hậu quả là bà mẹ tự tử. Đây là sự tự do quá trớn của ngưới Tây Phương, quá thiên về nhu cầu vật chất.
Kết luận
Tóm lại, chúng ta chỉ có một cách xưng hô chính là vai vế trong gia đình. Hoặc theo liên hệ gia đình, hoặc theo tình cảm riêng tư, hoặc theo tuổi tác, hoặc theo kiến thức, hoặc theo đẳng trật, hoặc theo lý tưởng. 
 Vấn đề khó là tự mình phải định vai-vế của người và của mình cho đúng chỗ. Và nên nhớ rằng vai-vế xưng hô thay đổi tùy theo môi trường sinh hoạt.