Đến tuổi đi học rồi, ôi sướng quá!
Ngày đầu tiên đến trường, Quang hào hứng nhảy chân sáo vào lớp với chiếc ba lô mới tinh sau lưng. Thật là nhiều đều mới lạ! Tiết học đầu tiên, cô giáo nói với cả lớp, "Các em hãy ngồi thật ngay ngắn!". Ban đầu Quang nghe lời cô, ngồi nghiêm, nhìn thẳng lên bảng. Nhưng một lúc sau, Quang bắt đầu mỏi. Quang nằm bò ra bàn viết bài, rồi lại ngửa hẳn cổ ra sau ghế hoặc xoay người vẹo vọ để đọc sách. Dáng ngồi của Quang thật là xấu, và nó còn gây hỏng cột sống nữa! Vậy phải ngồi ghế thế nào cho đúng đây? 1. Khi nghe giảng, phải ngồi thật ngay ngắn. Hai chân khép hờ, đặt xuống đất. Hai tay để tự nhiên trên bàn hoặc để sau lưng. Không ngửa người ra phái sau, cũng không nên tay chống cằm hoặc nằm phủ phục ra bàn. 2. Mắt nhìn thẳng về phía trước , trông kĩ những gì cô giáo viết trên bảng. Khi xem sách và viết bài thì không được để sách vở quá sát mắt. 3. Nếu chổ ngồi của bé ngay sát cửa sổ, bị ánh nắng chiếu vào chói gắt thì nên kéo rèm xuống, tránh để ánh sang hiếu thẳng vào sách vở. |
Cuối tuần vừa rồi, lâm được ngồi ở nhà xem tivi suốt ngày. Lâm ngồi trênn ghế xa lông xem liền mấy bộ phim hoạt hình. Chà, ngồi lâu mỏi quá, Lâm liền nằm bò ra ghế xem tiếp, Nhưng Lâm nằm một lúc thì thấy đau nhức mắt , hình ảnh trên tivi chập chờn trước mắt. Lâm đành tắt tivi, nhắm mắt nghỉ ngơi một lúc.
Nào, để khỏi bị đau mắ như Lâm, chúng ta cùng học cách bảo vệ đôi mắt nhé!
1. Không nên đọc sách dưới ánh sáng quá mạnh hay quá yếu, ánh sáng vừa phải đủ để bé nhìn rõ chữ là tốt. Nên để đèn hoặc nguồn sáng ngay bên trái, trước mặt mình, như vậy sẽ không bị vướng bóng tối che mắt. 2. Không nên xem sách quá lâu, khoảng nửa tiếng thì nên đứng lên, ngắm mây trời, cây cối ngoài cửa, cho mắt nghỉ ngơi. 3. Khi xem sách, xem tivi, chơi máy tính... thì nên ngồi ngay ngắn, lưng thẳng, không nên nằm sấp hoặc nằm ngửa. Giữ cho mắt mình cách quyển sách và tivi một khoảng không xa quá, cũng không sát quá. 4. Không nên xem sách lúc đi bộ, ngồi xe ô tô, khi ăn cơm hoặc khi nằm trên giường. Cũng không nên nhìn thẳng vào những nguồn sáng quá mạnh như lửa hàn, nắng chói chang... 5. Không nên dùng tay bẩn sờ vào mắt hoặ dụi mắt khi có vật lạ lọt vào . Hàng ngày nên "tập thể dục" đơn giản cho mắt như chớp chớp mắt, nhắm mắt nghỉ ngơi. |
Trẻ em từ 6-10 tuổi, rất dễ tiếp thu những động tác sau khi được người thân hướng dẫn:
Làm cho mũi ngừng chảy máu: Vào giờ ra chơi, một quả bóng thình lình va mạnh vào mũi của người bạn học cùng lớp. Máu mũi chảy ra thì phải làm sao? Để đầu nạn nhân nhìn ngước lên và bịt mũi lại trong vòng 10 phút. Không nên cho nạn nhân nằm xuống, bởi mũi ngưng chảy máu nhưng máu có thể tiếp tục chảy xuống họng và dạ dày. Chăm sóc vết thương nhỏ: Giúp mẹ gọt rau củ, không may bị đứt tay, trẻ phải rửa vết thương bằng nước sạch, sau đó bôi thuốc sát trùng (không cồn) để tránh nhiễm trùng. Cầm máu vết thương sâu: Do muốn bốc sò bằng tay, nên bố bị vỏ sò cắt vào tay. Vết thương rất sâu và máu chảy ra nhiều. Trong khi chờ cấp cứu, trẻ có thể dùng ngay miếng vải sạch chặn lên vết thương. Đồng thời nâng cánh tay của bố lên để máu ngưng chảy. Nếu như đứa trẻ không giúp gì được cho bố cầm máu, điều này sẽ làm nó bối rối. Sợ "không làm được việc" có thể là lý do dẫn đến thất bại. Bạn cần động viên trẻ. Chăm sóc vết bỏng: Trong khi đi picnic, một bạn muốn nhóm lửa để trổ tài nội trợ nên bị bỏng nhẹ. Trước hết, phải rửa nước lạnh trong vòng 5 phút. Không được bôi kem dưa leo để làm mát vết bỏng. Trong trường hợp bị bỏng nặng, không nên cởi quần áo của nạn nhân vì chỗ bị bỏng, vải đã bám chặt vào rồi. Không được chọc các nốt phồng. Làm gì khi nạn nhân không còn dấu hiệu sự sống?
Động tác làm hồi sinh cho nạn nhân có thể rất khó đối với trẻ em 10 tuổi. Tuy nhiên, trong trường hợp cần thiết, tốt hơn hết nên thử làm gì đó còn hơn không. Về cách thực hành, bạn nên giải thích cho trẻ:
Quỳ gối bên cạnh nạn nhân trong tư thế nằm ngửa. Sau khi kiểm tra thấy nạn nhân không còn trả lời và ngưng thở, hãy gọi cấp cứu ngay tức khắc, kế đến nâng đầu nạn nhân về phía sau để thực hiện hà hơi thổi ngạt, dùng ngón cái và ngón trỏ kẹp mũi nạn nhân rồi thổi 2 lần. Trường hợp nạn nhân không phản ứng gì thì thực hiện động tác xoa bóp tim, đặt hai bàn tay lên phía trước xương ức, ấn lên ngực nạn nhân 15 lần rồi buông tay ra. Trong khi chờ đợi cấp cứu, phải luân phiên xoa bóp tim và hà hơi thổi ngạt. Em bé rơi từ trên bàn để quấn tã xuống Dặn trẻ không nên xê dịch em bé khi bị thương. Chỉ cần giữ cho đầu nạn nhân ngay ngắn so với thân thể. Nếu có gì nghiêm trọng, nên thử dìu nạn nhân cẩn thận trong tư thế tự nhiên. Trong lúc chờ mẹ về hoặc đợi cấp cứu, điều quan trọng là phải túc trực bên cạnh em bé, trò chuyện để bé được yên tâm. Sự có mặt của người bên cạnh tránh cho nạn nhân khỏi rơi vào tình trạng vô ý thức. Ngoài ra bạn cần dặn trẻ: Khi có người bị điện giật, không được chạm vào nạn nhân, mà phải cúp cầu dao điện ngay. Theo Bác sĩ gia đình |
Ngay cả khi bạn nhớ số điện thoại cấp cứu thì cũng nên dán nó trong nhà ở vị trí dễ nhìn nhất, để con bạn có thể nhìn thấy khi cần. Bạn cũng cần học và dạy con một số động tác xử lý như cầm máu, chăm sóc vết bỏng... để cứu mình và người khác.
Dạy cho trẻ gọi cấp cứu và phải làm gì trong trường hợp có tai nạn nghiêm trọng xảy ra là một điều rất cần thiết. Ở các nước tiên tiến, chương trình học của trẻ có những bài ngoại khóa hướng dẫn vấn đề này tùy theo từng lứa tuổi. Biết cách gọi cấp cứu là một hành động đơn giản để đứa trẻ được cứu sống. Các cháu có thể phản ứng rất hiệu quả thật sớm khi gặp tai nạn nếu được dạy phải hành động thế nào. Trẻ từ 4 đến 5 tuổi có thể nói tên của chính mình, cho biết địa chỉ và bấm được 2 chữ số trên điện thoại. Cháu đã lớn để có thể báo động gọi cấp cứu. Trẻ từ 7 đến 10 tuổi có thể băng bó cầm máu vết thương nhẹ, sơ cứu vết bỏng, xê dịch và đặt nạn nhân nằm ngang, ở vị trí an toàn. Từ 10 tuổi trở lên, trẻ đã phát triển toàn diện về thể lực để có thể ấn tim và hà hơi thổi ngạt. Dán số điện thoại cấp cứu trong nhà Khi xảy ra tai nạn, báo động là việc cần làm ngay. Trong nhà, cần phải dán số điện thoại cần thiết vào nơi dễ thấy, có thể là trong bếp, trên tủ lạnh, hay cạnh máy điện thoại. Ngoài đường phố, số điện thoại cấp cứu được dán ở phòng điện thoại công cộng và được gọi miễn phí. Trẻ em cần nhớ 2 số điện thoại cần thiết của cơ sở cấp cứu y tế và lượng phòng cháy chữa cháy. Làm thế nào khi gọi cấp cứu? Cần giải thích cho trẻ biết rằng: Khi gọi cấp cứu, phải kể qua sự kiện xảy ra (số người bị thương, nguyên nhân xảy ra tai nạn, địa điểm nơi xảy ra tai nạn, số điện thoại để liên lạc). Cần dặn các em đừng gác máy trước đầu dây bên kia. |
1 số tại nạn đáng tiếc xảy ra, dưới đây là một kỹ năng xử trí cấp cứu rất quan trọng và cần thiết để cứu sống nạn nhân và hạn chế những biến chứng của vết thương. Mục đích của việc cầm máu tạm thời là nhanh chóng làm ngưng chảy máu vì nếu mất máu nhiều, nạn nhân sẽ bị sốc nặng.
Cầm máu vết thương
Khi bị vết thương chảy máu, cần: - Nâng cao phần bị thương lên - Dùng khăn sạch (hoặc dùng tay nếu không có khăn) ấn chặt ngay vào vết thương. Giữ chặt cho đến khi máu ngừng chảy, - Nếu máu chảy không cầm được khi ấn chặt vào vết thương, hoặc nếu nạn nhân đang mất nhiều máu: * Cứ ấn chặt vào vết thương * Giữ cho phần bị thương giơ cao lên, càng cao càng tốt * Buộc ga rô tay hoặc chân càng gần chỗ vết thương càng tốt. Xiết chặt vừa đủ làm máu cầm lại. Buộc ga rô bằng một cái khǎn gấp lại hoặc dây lưng rộng, đừng bao giờ dùng một dây thừng mảnh, dây thép... * Chuyển ngay nạn nhân đến cơ sở y tế. Chú ý: * Chỉ buộc ga rô ở chân hoặc tay nếu máu chảy nhiều và ấn chặt trực tiếp vào vết thương mà máu không thể cầm được, * Cứ 30' lại nới lỏng dây ga rô một lát để xem còn cần buộc ga rô nữa hay không và để cho máu lưu thông. * Nếu máu chảy nhiều hoặc bị thương nặng, để cao chân và đầu thấp để đề phòng sốc. Các phương pháp cố định tạm thời khi gãy tay và gãy chân. Khi gãy xương, đầu xương gãy sắc nhọn dễ đâm rách mạch máu, thần kinh, làm cho nạn nhân mất máu, đau đớn... Vì vậy cần cố định xương gãy để hạn chế đau đớn và tai biến cho bệnh nhân. Cách cố định tạm thời một số loại gãy xương như sau: * Gãy xương cẳng tay, đặt nẹp (nẹp bằng tre, gỗ) ngắn ở mặt trước cẳng tay đi từ nếp khuỷu đến khớp ngón - bàn; đặt nẹp dài ở mặt sau cẳng tay, từ quá mỏm khuỷu, đối xứng với nẹp ở mặt trước. Buộc cố định 2 nẹp vào bàn tay và cẳng tay. Dùng dây (vải, khăn, băng cuộn) để treo cẳng tay ở tư thế gấp 90 độ. * Gãy xương cánh tay: đặt một nẹp ở mặt trong cánh tay, đầu trên lên tới hố nách, đầu dưới sát nếp khuỷu. Mặt ngoài cánh tay đặt một nẹp đầu trên quá khớp vai nách, đầu dưới quá khớp khuỷu. Cố định nẹp ở 2 đoạn: 1/3 trên cánh tay, ở trên khớp khuỷu. Dùng băng tam giác (khăn vuông gấp chéo) hoặc băng cuộn treo cẳng tay vuông góc 90 độ và cuốn một vài vòng băng buộc cánh tay vào thân. * Gãy xương cẳng chân: đặt 2 nẹp ở mặt trong và mặt ngoài chi gãy đi từ giữa đùi tới quá cổ chân. Băng cố định nẹp vào chi ở các vị trí bàn cổ chân, dưới và trên khớp gối, giữa đùi. *Gãy xương đùi: dùng 3 nẹp để cố định, nẹp ở mặt ngoài đi từ hố nách đến quá gót chân; nẹp ở mặt trong đi từ bẹn đến quá gót chân; nẹp ở mặt sau đi từ trên mào chậu đến quá gót chân. Băng cố định nẹp vào chi ở các vị trí: bàn chân, cổ chân, 1/3 trên cẳng chân, trên gối, bẹn, bụng và dưới nách. Buộc chi gãy đã cố định vào chi lành ở ba vị trí cổ chân, đầu gối và đùi. Sau đó chuyển đến bệnh viện để được xử trí. |
Hàng ngày tới lớp, Minh phải đi ngang qua khu công trình xây dựng. Minh cố đi vòng kẻo bị nguy hiểm. Nhưng hôm nay do sắp muộn giờ học, nên Minh phải chạy thật nhanh qua khu công trường. Nào ngờ thấy đau nhói dưới gan bàn chân, Minh đã dẫm lên một tấm gỗ còn nhiều đinh, một chiếc đinh đã đâm vào giầy.
1. Đầu tiên, hãy bình tĩnh ngồi xuống, gỡ chiếc đinh ra khỏi giầy. 2. Lấy ngón tay cái ép máu bẩn ra khỏi vết thương để tránh nhiễm trùng. 3. Dùng nước lạnh rửa sạch vết thương, để tránh viêm nhiễm, rôi dùng vải gạc băng vết thương lại. 4. Nếu không rút được đinh ra hoặc vết thương tấy nhức, phải đến bệnh viện khám ngay. 5. Phải kịp thời đến bác sĩ khám, để phòng bị uốn ván. |
Mẹ mới mua cho Duy một đôi giầy thể thao đẹp tuyệt. Duy ao ước đôi giầy này đã lâu, cậu lập tức xỏ chân vào giầy, ra sân đá bóng với các bạn. Duy hồ hởi đá liền một mạch từ sang đến trưa. Khi về đến nhà, cởi giầy ra Duy mới giật mình, bàn chân Duy đã bị giầy thể thao cọ xát làm thành mấy cái mụn phồng rộp to tướng, đến là khó chịu.
1. Nếu nhọt ở chân mới chỉ phồng lên, chưa bị vỡ thì đừng động chạm gì vào nó nữa. 2. Nếu vết phồng bị vỡ thì bôi thuốc để chống nhiễm trùng. 3. Sau khi bôi thuốc tránh vận động mạnh, va chạm vào vết đau. Không nên đi tất chật, tất bẩn, giầy chật, giầy bẩn. |
Một ngày hè nóng nực, Quân và các bạn chơi đá bóng xong, mồ hôi đầm đìa thật là khó chịu! Quân và cậu bạn liền đi tắm ngay. Hai bạn chui vào phòng tắm, vừa tắm vừa đùa nghịch thật vui vẻ. Bỗng cậu bạn quá tay, hắt nước vào tai của Quân, khiến Quân vừa đau vừa khó chịu.
Bé hãy giúp Quân xem phải làm thế nào? 1. Những khi bị nước chui vào tai, bé đừng cuống quýt móc tay vào tai. Hãy lấy bong tăm nhẹ nhàng đưa vào tai để hút nước ra. 2. Nếu không có bông tăm, đầu tiên hãy nghiêng đầu chúc lỗ tai xuống dưới, rồi nhảy lò cò vài cái để dốc nước ra. 3. Lấy tay bịt tai không bị ngấm nước, vỗ vỗ vào tai và há miệng thật to để tạo áp lực đẩy nước ra. 4. Sau khi nước ra hết mà vẫn đau tai thì nên đi khám, để bác sĩ kiểm tra xem có ảnh hưởng gì không? |
Một ngày hè nóng nực, bé làm bài tập xong liền chạy ra sân làm việc nhà giúp bố mẹ. Bé học theo mẹ, bỏ quần áo bẩn vào một cái chậu lớn, rồi đổ xà phòng vào và vò lấy vò để. "Ối" đang vò quần áo bỗng bé kêu ré lên, nước xà phòng bắn vào mắt bé rồi!
Bé phải làm sao bây giờ? 1. Khi bị xà phòng, nước rửa bát hoặc các hóa chất hóa học bắn vào mắt, tuyệt đối không được dùng tay bẩn dụi vào mắt. 2. Hãy rửa tay thật sạch, rồi rửa mắt bằng nước mát. Bé có thể úp sấp vào chậu nước mát, mở mắt chớp chớp cho các hóa chất trôi tuột ra. Nhớ rửa một lúc lâu, cho các chất hóa học thoát ra hết. 3. Nếu rửa rồi mà mắt vẫn đau, thì bé hãy gọi điện cho bố mẹ, hay hàng xóm đến giúp đỡ. 4. Khi đi bệnh viện, bé nhớ đem theo lọ đựng thứ hóa chất đã bắn vào mắt bé để bác sĩ biết được chất gì đã làm mắt bé bị đau. |
Bị quả bóng đập vào mắt.
|
Hôm nay, nhà trường tổ chức Hội khỏe thể dục thể thao. Huy được phân công làm thủ môn đội bóng của lớp. Trận đấu bắt đầu hết sức quyết liệt, bạn nào cũng hăng hái giành bóng, sút vào khung thành đối phương. Môt quả bóng bổng từ xa bay đến, Huy lao ra khỏi khung thành, định đón bắt quả bóng. Nào ngờ quả bóng rới xuống chân một cầu thủ khác, cậ ta sút thật mạnh...trúng vào mắt Huy. Ái chà, đau quá đi thôi!
1. Khi bị bóng hoặc vật lạ đập vào mắt, bé đừng dùng tay dịu mắt, cũng không được lau áo, quần lên mắt. 2. Hãy ngồi xuống, nhắm mắt lại cho mắt nghỉ một lát.Rồi bé mở mắt ra, xem mình có nhìn mọi vật được bình thường hay không. 3. Nếu mắt vẫn nhìn được mọi vật xung quanh, bé hãy lấy khăn lạnh hoặc đá chườm lên chỗ đau, để giảm đau và đỡ bị sưng to. 4. Nếu bé thấy mắt rất đau và nức, không thể mở ra được, thì phải lập tức bảo bố mẹ đưa đi bệnh viện ngay. |
Bị hóc xương cá.
|
Hôm nay mẹ mua một chú cá chép thật to về. Mẹ chiên giòn lên rồi rưới nước sốt khắp người chú cá, trôn đến là hấp dẫn. My nuốt nước bọt thèm thuồng, rồi nhân lúc mẹ đan dở tay trong bếp. My liền véo một miếng cá to chon gay vào miệng."Ui mẹ ơi" - My kêu lên đau đớn, vì ăn quá vội vàng nên My đã bị hóc xương cá.
1. Khi bị hóc xương cá, phải hết sức bình tĩnh. Nếu là những con cá nhỏ, bé hãy thử nuốt một miếng bánh mì to, một miếng cơm hoặc một moe61ng rau, để xem cái xương có bị kéo xuống không. Nếu không được thì bé hãy ngậm miệng, nuốt nước bọt nhiều lần. Không được dùng tay móc xương cá ra. 2. Nếu chiếc xương bị hóc ở ngay sát miệng, có thể nhin thấy được thì bé hãy há to miệng ra, để bố mẹ lấy đũa đè lưỡi của bé xuống, dùng cái kẹ nhắc chiếc xương ra. 3. Còn nếu chiếc xương mắc ở sâu bên trong và gây đau đớn, thì bé nên đi đến bệnh viện ngay để bác sĩ gắp ra. |
Bị trật khớp bả vai đau quá
|
" Reng, reng, reng!" Tiếng chuông hết giờ vừa vang lên, Minh liền chạy ào ra khỏi lớp. Giờ thể dục hôm qua thầy dạy cho Min môn xà đơn, hôm nay Minh pải luyện lại mới được! Minh nắm chắc cả hai tay lên xà, đu người lên rồi giơ một tay lên cao làm điệu bộ của người chiến thắng. Các bạn đứng cạnh vỗ tay hoan hô nhiệt liệt, khiến Minh càng hào hứng hơn. Một lúc sau, bàn tay Minh đổ mồ hôi đầm đìa, do không nắm được chắc vào xa Minh tuột xuống sái cả khớp bả vai. Minh đau quá kêu la ầm ĩ....
1. Khi bị trật khớp, sai khớp, bé đừng quá hoảng sợ. Trật khớp là hiện tượng các khớp xương bị chệch khỏi nhau, bé se không được cử động một thời gian, nhưng rồi sẽ khỏi mà thôi. 2. Không được cử động mạnh, sờ nắn linh tinh hoặc tự ý bôi thuốc lên chỗ đau. 3. Hãy lấy khăn ướt phủ lên vết đau hoặc lấy đá lạnh chườm lên cho đỡ đau hơn. 4. Không đượ để các bạn chạm mạnh vào cỗ đau hoặc nắn lại khớp cho bé, tự tiện nắn lại khớp có thể còn khiến bé bị đau hơn. 5. Hãy nhờ bạn dìu vào bệnh xá của trường hoặc bệnh viện gần đó. |
Bị say tàu, say xe.
|
Nghỉ hè năm nay, Mai được bố mẹ cho đi tàu thủy trên vịnh. Lần đâu tiên được đi tàu thủy, khỏi phải nói Mai háo hức đến thế nào. Mai đứng trên boong tàu, dõi mắt ngắm nhìn biển mênh mông, rồi lại chạy từ bên này sang bên kia boong để ngắm cảnh vật bên kia. Trời về chiều, gió nổi lên, những con song lớn xô đẩy vào thân tàu, làm con tàu trồi lên sụt xuống dữ dội. Mai bỗng thấy hoa mắt, chóng mặt, buồn nôn, đứng không vững nữa....
1. Lúc bị say song, say xe, hãy cố gắng thả lỏng người, nghỉ đến những chuyện khác. 2. Bé nên chọn ghế ngồi cứng và quay mặt cùng hướng tàu xe di chuyển thì sẽ đỡ say hơn. 3. Không khí trong lành sẽ làm giảm cơn say tàu xe. Bé hãy mở cửa sổ, đứng ra ngoài chỗ thoáng sẽ thấy dễ chịu hơn. 4. Khi tàu xe lắc lư dữ dội, hãy ngồi yên trên ghế, đừng chạy nhảy lung tung. 5. Nếu quá mệt, bé hãy vào toa lét nôn các thứ trong bụng ra, rồi nằm yên trên ghế nghỉ ngơi, rồi cơn say sẽ qua. |
Bị vật lạ chui vào mũi.
|
Một ngày hè nóng nực, bố mẹ đi làm hết, chỉ còn mình Lê ở nah với chú mèo mướp. Lê xem tivi chán rồi bèn lấy hộp kim chỉ của mẹ ra chơi. Lê thích nhất là những chiếc cúc nhỏ xíu, đủ màu sắc. Lê dốc hết những chiếc cúc ra tay, rồi xâu chúng lại không biết chán. Lê vừa chơi vừa đưa tay lên gãi đầu gãi tai, chẳn may một chiếc cúc chui tọt vào mũi Lê. Nếu bé bị vật lạ chui vào mũi, bé phải xử lý thế nào?
1. Không được dùng tay hoặc vật cứng thò vào mũi móc vật lạ ra. Làm như thế sẽ khiến vật lạ càng chui sâu vào trong hơn, va còn gây đau mũi.
2. Cũng không được hít mạnh bằng mũi, hít vào sẽ khiến vật lạ chui vào mũi sâu hơn, gây tắc thở. 3. Hãy hít một hơi dài bằng miệng, rồi bịt hặt bên lỗ mũi không có vật lạ, thở ra thật mạnh bằng lỗ mũi kia. Làm như thế vài lần sẽ khiến vật lạ bị đẩy ra ngoài. 4. Nếu vật lạ chui vào mũi quá sâu, bé nên lập tức gọi điện cho bố mẹ, để bố mẹ về đưa bé đi bệnh viện. 5. Bé không nên cầm những vật nhỏ như khuy áo, hạt lạc, hạt hạnh nhân...đưa lên mồm lên mũi. |
Bị nghẹn cứng cổ họng
|
Hôm nay là sinh nhật Tuấn tròn 5 tuổi.Tuấn mời rất nhiều bạn cùng lớp và các bạn cùng khu đến chung vui. Bố mẹ chuẩn bị sẵn cho các bạn nhỏ một bàn đầy ắp bánh gatô và các bánh kẹo, thạch thật ngon và để các bạn nhỏ tự vui vẻ với nhau. Tuấn cắt bánh mời mỗi bạn một miếng, rồi xung phong cho một miếng bánh to vào miệng. Bỗng Tuấn bị nghẹn cứng cả cổ họng. Cậu nuốt vội quá nên cả miếng bánh nghẹn ở ổ mất rồi.
Tuấn phải làm thế nào đây hả bé? 1. Nếu là nghẹn thạch hoặc kẹo thạch mềm thì phải tới bệnh viện ngay, vì để lâu rất nguy hiểm. 2. Nếu bị nghẹn mà vẫn có thể nói đươc, hoặc ho được thì nghĩa là đường hô hấp chưa bị chẹn. Bé hãy hít thở thật sâu, rồi ho thật mạnh, đẩy vật nghẹn ra khỏi cổ họng. 3. Nếu không thể ho ra vật nghẹn, hãy nhờ bạn vỗ nhẹ vào lưng, ép mạnh để đẩy vật nghẹn ra ngoài. 4. Hãy nhờ các bạn ôm chặt lấy bụng từ phía sau lưng, ép mạnh để đẩy vật nghẹn ra ngoài. 5. Nếu các biện pháp trên đều không có tác dụng, hãy gọi cấp cứu ngay. |
Bị ngộ độc thứ ăn, đau bụng quá!
|
Chiều hôm qua mẹ cho chị em Mai ít tiền đi mua sắm. Hai chị em tung tăng dắt nhau ra phố. Đi dạo các cửa hàng một lúc, hai chị em vừa mệt vừa đói. May sao vừa lúc ấy thì hai chị em nhìn thấy dãy quán bán đồ ăn. Hai chị em thèm thuồng sà vào hàng nem rán, ốc luộc, bánh khoai chiên...Cái gì cũng thật là ngon! Hai chị em ăn no căng bụng rồi dắt nhau về nhà, nhưng đột nhiên cả hai thấy đau dữ dội, bụng sôi lên ùng ục. Chắc là ngộ độc thức ăn rồi, nguy quá!
1. Hãy chạy vào toa let, nôn hết các thứ vừa ăn ra, bé sẽ thấy nhẹ nhàng hơn, không đau đớn và sôi bụng nữa. Nôn hết các thứ ăn bẩn ra sẽ ngăn cản việc cơ thể bị nhiễm độc nặng hơn.
2. Uống nhiều nước ấm và nước muối, giúp cơ thể thanh lọc các chất độc ra ngoài, đồng thời bổ sung nước cho cơ thể.
3. Nếu bị sốt cao, tiêu chảy và nôn mửa không dứt, thì có thể đã bị ngộ độc nặng. Hãy đến bệnh viện khám ngay.
4. Hãy cho chất nôn ra hoặc hất bài tiết ra vào túi nilon, bảo quản cẩn thận, đem đến cho bác sĩ kiểm tra. Như vậy sẽ dễ tìm ra nguyên nhân gây bệnh.
5. Hiện nay đang có những dịch bệnh rất nguy hiểm như dịch tiêu chảy cấp...Do vậy không nên ra ngoài ăn. Trước khi ăn cần rửa tay bằng xà phòng và cần ăn chin, uống nước sôi.
|
Bị trẹo chân
|
Năm nay nhà trường mở hội thao rất lớn, có nhiều nội dung thi đấu. Bạn Quang đăng ký thi chạy, thường ngày Quang chạy rất nhanh mà. Tiếng sung hiệu lệnh vang lên, Quang và các đồng đội guồng chân lao về đích. Các khán giả hò reo, cổ vũ ầm ĩ bên ngoài sân đấu. Bỗng Quang khuỵu chân một cái, bàn chân phải vẹo sang một bên. Bạn Quang bị trẹo chân rồi, chắc bé cũng đã từng gặp phải chuyện như thế phải không?
1. Trẹo chân rất đau, bé không được đứng dậy ngay, càng không nên đi lại luôn. 2. Nếu bé thấy chỗ đau dần dần dịu đi, hãy ngồi dậy, ấn ngón tay cái vào chỗ đau, xoa nhẹ từ bàn chân lên bắp chân để làm giảm cơn đau. 3. Một lúc sau, bé hãy nhờ các bạn dìu mình, đưa lê xe taxi về nhà. 4. Về đến nhà, lấy khăn ướt hoặc lấy vải bọc đá lạnh chườm vào vết đau để đỡ bị sưng lên. 5. Nếu chỗ trẹo chân sưng quá to, đau tấy và nhức nhối thì bé phải nhờ các bạn đưa đến bệnh viện ngay. |
Gãy xương thật là đau
|
Bạn Mai tuy là con gái nhưng nổi tiếng hay chạy nhảy trong lớp, lần nào cả lớp đi chơi Mai cũng chạy thật xa, khiến cô phải đi tìm. Tuần trước cũng thế, lớp đi vào công viên cắm trại, Mai tung tăng chạy khắp. Bỗng Mai trượt chân, ngã bịch xuống đất. Mai chống cánh tay phải xuống đất quá mạnh nên cánh tay gãy rắc một cái, đau ơi là đau. Mai chảy nước mắt ràn rụa, bật khó ầm ĩ....
1. Những lúc bị đau bé không nên khóc to, càng khóc to càng làm bé đau hơn, mà cũng không lành bệnh được. 2. Bị gãy xương thì bé nên nằm yên tại chỗ, không được cử động mạnh, không được xoa bóp, kéo giật hỗ đau. 3. Bé hãy kêu thật to để kêu thầy cô và các bạn đến giúp. 4. Nhờ thầy cô và các bạn kiếm cây gỗ, cành cây, gậy thẳng, buộc chặt vào cánh tay, cẳng chân bị gãy. 5. Sauk khi cố định vết thương, hãy dùng dây hoặc vải cột cánh tay đau lên cổ để đỡ đau, còn nếu gãy chân thì không được đi lại, phải nằm trên cáng. 6. Sau khi xử lý tạm thời như trên, hãy lập tức vào bệnh viện khám. |
Bị côn trùng nhỏ chui vào tai đau quá.
|
Một buổi chiều hè mát mẻ, Quyên chạy đi chạy lại trong công viên, vui đùa với các bạn nhỏ. Một bạn rón rén lại gần định òa Quyên, nhưng Quyên đã phát hiện ra từ sớm và lập tức quay người lại đuổi bạn ấy. Bỗng có tiếng vo ve vo ve khó chịu vang lên bên tai Quyên, một con bọ nhỏ xíu đã chui tọt vào trong lỗ tai Quyên. Làm thế nào đây hả bé ?
1. Không được thò tay hoặc bông tăm vào ngoái tai, nếu cho ngón tay hoặc bông tăm vào, con côn trùng nhỏ sẽ bay loạn xạ trong tai, làm đau màng nhĩ. 2. Hãy hướng tai ra phái ánh sáng, hoặc soi đèn pin vào lỗ tai, con côn trùng có thể sẽ bò ra ngoài. 3. Hãy ngửa tai có côn trùng lên trên, rỏ thuốc nhỏ mắt hoặc nhỏ mũi vào tai, con côn trùng sẽ bị ngập trong nước và chết. 4. Rồi quay nghiêng nhanh tai đó xuống, con con trùng sẽ trôi ra ngoài theo nước. 5. Nếu đã thử các cách trên mà không lấy được con côn trùng ra, thì bé phải đi bệnh viện ngay, để bác sĩ khám cho thật kĩ. |
Làm gì khi bị động vật cắn
|
Lân và Hoa rất thích chơi nhảy dây ở dưới sân. Có một chú chó nhỏ từ đâu chạy đến, tung tăng len vào giữa hai bạn. Lân lại gần, xoa đầu chú cún rồi bế nó vào lòng. Ban đầu chú cún con gừ gừ ra chiều sung sướng, nhưng một lúc sau bức bối vì bị ôm chặt quá, chú nhe răng cắn một miếng vào bắp tay Lân. Thôi chết vết cắn rỉ máu rồi, Hoa sợ quá mặt tái mét, bật khóc vì lo cho bạn....
1. Khi bị chó, mèo hoặc các loài vật cắn, bé hãy lập tức chạy về báo với bố mẹ. 2. Nếu bố mẹ đi vắng cả, bé hãy dùng xà phòng chà sát nhiều lần. Sau đó, bé dùng cồn y tế lau vào miệng vết thương để diệt khuẩn. 3. Bóp nhẹ cho máu độc thoát ra ngoài, rồi dùng vải gạc sạch băng bó chỗ đau. 4. Nếu máu chảy ra nhiều, hãy ấn mạnh tay vào vết để cầm máu tạm thời. 5. Sau đó, bé phải đi khám ngay để tiêm phòng bệnh dại và các bệnh truyền nhiễm |
Bị dầm nhọn đâm vào tay.
|
Gia đình Lâm sắp chuyển sang nhà mới. Lâm giúp bố mẹ đóng gói đồ đạc vào những thiếc thùng lớn để công ty chuyển nhà bốc chở đi. Lâm bận bịu giúp bố mẹ từ sang sớm, để kịp giờ các chú công nhân khuân vác đến chuyển đồ. Lâm nhấc những chiếc ghế gỗ nhỏ để sát tường lấy đường đi lại: "ái" Lâm kêu thét lên vì thấy đau nhói ở tay. Một cái dăm gỗ dưới chân ghế đã đâm vào tay lâm, thật là đau!
1. Khi bị dằm gỗ đâm vào tay, bé hãy rửa sạch vết đau, bóp cho máu bẩn trào ra.
2. Dùng móng tay sạch, hoặc nhíp tẩy trùng nhể chiếc dằm ra. Nếu phần dằm nhô ra ngoài rất ngắn, thì phải dùng kim tẩy trùng nhẫn nại và khéo léo ấn thịt xuống cho dằm trồi nhiều hơn, rồi nhổ nó ra. 3. Sau khi nhổ được chiếc dằm ra ngoài, hãy bóp nốt chỗ máu bẩn ra, để khỏi bị nhiễm trùng. 4. Rồi bôi thuốc sát trùng vào chỗ đau, dán băng ơ - gâu hoặc băng lại bằng vải gạc sạch. 5. Nếu chiế dằm ăn quá sâu vào trong tay, bé hãy đến bệnh viện ngay. |
Bị chảy máu mũi rồi.
|
Giờ thể dục hôm nay cả lớp chơi bóng chuyền. Vâ nhảy lên định hắn một pha đập bóng của đối phương, nhưng chẳng may quả bóng đập quá mạnh giáng trúng vào mũi Vân. Máu mũi chảy ra ròng ròng, làm thế nào bây giờ?
1. Khi bị chảy máu mũi, hãy vương cổ ra phía trước, bóp khẽ vào ai cánh mũi. Hít thở bằng miệng một lúc cho đến khi máu ngừng chảy.
2. Không được ngả cổ ra sau hoặc vỗ vào cổ, làm như thế máu từ mũi sẽ chảy vào cổ họng. 3. Dùng nước mát vỗ vỗ lên trán liên tục, dùng khăn ẩm ấp lên trán và mũi. 4. Nếu hai lỗ mũi cùng chảy máu thì hãy giơ cao cả hai tay lên trời. Nếu lỗ mũi bên trái chảy máu thì giơ tay bên phải, lỗ mũi bên phải chảy máu thì giơ tay bên trái. Biện pháp này giúp cầm máu rất nhanh đấy. 5. Nếu sau khi thử các cách trên mà vẫn chảy máu, thì hãy đút tạm ít bông vào mũi, tay kẹp vào mũi và đến bệnh viện ngay. |
Bị trầy đầu gối rồi
| |||||
Sân trường giờ ra chơi có rất nhiều bạn nhỏ, ồn ào và vui vẻ. Góc thảm cỏ đằng này, Quý đang chơi bịt mắt bắt dê với mấy bạn ùng lớp. Quý bị bịt chặt mắt bằng một dãi băng, cậu mò mẫm dò tìm các ban. Đang dò dẫm thì ỗng Quý vấp phải một hòn đá giữa đường và ngã sấp xuống đất. Ai` dà, đầu gối Quý bị trầy rồi,chảy cả máu, đến là đau!.
1. Khi bị ngã trầy xước đầu gối và chân, đầu tiên hãy rửa tay thật sạch, dùng khăn aty sạch thấm hết đất cát bám trên chỗ đau. 2. Sau đó, dùng xà phòng và nước sạch rửa vết thương để tránh nhiễm trùng. Bé nhớ là phải rửa tứ phía trong vết thương ra ngoài. 3. Bóp khẽ bốn phía quang vết thương, dùng khăn ướt và nước sạch rửa d những giọt máu bẩn. 4. Dùng bông gòn sạch thấm hết máu và nước ở vết thương, rồi xoa thuốc đỏ hoặc thuốc cầm máu lên. 5. Băng vết thương lại bằng vải gạc sạch hoặc khăn sạch, nhưng đừng băng bó quá chặt. 6. Nếu vết thương khá sâu, chảy nhiều máu thì nên đi bệnh viện ngay để bác sĩ xử lý. | |||||
Dùng dao bị đứt tay
| |||||
Chiều nay Vân được về sớm, bố mẹ vẫn chưa đi làm về. Trời oi bức quá, trong tủ lạnh có vài quả táo, dâu tây và lê. Vân mới học mẹ làm salat hoa quả hôm trước, hôm nay Vân định thử làm để bố mẹ ngạc nhiên. Vân vừa hát khe khẽ vừa gọt quả táo to. Bỗng con dao sượt khỏi quả táo, đâm vào ngón tay của Vân. Vết thương khá sâu, máu ứa ra từ vết thương làm Vân sợ hết hồn.
1. Khi bị cứa đứt tay, hãy xoa nhẹ xà phòng lên vết thương, rồi xả sạch bằng nước mát, để tránh vi khuẩn và vật thể lạ xâm nhập vào miệng vết thương gấy nhiễm trùng. 2. Dùng bàn tay không bị thương ấn chặt vào vết thương một lúc sẽ có tác dụng cầm máu. 3. Nếu vết thương rất nhỏ vả nông thì lau khô tay và bôi thuốc cầm máu, rồi bọc lại bằng vải sạch là được. 4. Nếu vết thương rất sâu, máu chảy ra nhiều thì dùng vải sạch băng tạm vào rồi đến bệnh viện khám ngay. 5. Khi vết thương lên da non sẽ ngứa, nhưng không được cậy miệng vết thương. Khi lành hẳn thì lớp da chết sẽ tự bong ra.
6. Nếu bị đứt ta chân do kính vỡ đâm vào, thì phải đi bệnh viện ngay lập tức, bởi những vụn kính vỡ rất dễ găm vào trong cơ thể, gây nguy hiểm.
| |||||
Bé bị bỏng rồi
| |||||
Lan và các bạn chơi trò trốn tìm, đến lượt bạn Quân chơi trò bịt mắt, Lan mau chóng chạy vào bếp để nấp. Lan nhìn quanh, chẳng có chỗ nào kín cả. À, nấp vào sau cánh cửa. Lan liền kéo cửa ra, định nấp ra sau cửa. Bỗng ấm nước nóng già đổ xuống, nước nóng tóe ra chân Lan. Trời ơi đau quá, bỏng rát cả chân !
1. Bị bỏng nước sôi thì bé hãy lập tức lấy nước mát rửa vết thương, để làm giảm đau và rửa sạch vết thương. 2. Nếu vết bỏng nhẹ, chỉ hơi đỏ thì rửa sạch rồi bôi thuốc bỏng lên là được. 3. Nếu vết bỏng nặng, phồng rộp lên thì bé hãy nằm xuống hoặc ngồi yên tại chỗ, không đi lại nhiều kẻo bị đau thêm. 4. Không được chọc vỡ lớp da phồng. Có thể chấm một chút rượu trắng hoặc cồn vào rìa vết bỏng, dùng phải sạch bao kín vết phỏng lại. 5. Nếu nước sôi dội vào quần áo, làm quần áo dính chặt vào da thì nên xả nước mát vào chỗ dính, rồi cắt lớp quần áo ngoài đi. Không được kéo, giật lớp quần áo đó ra khỏi da, kẻo sẽ bị tướp da và nhiễm trùng. 6. Sau khi rửa sạch vết bỏng, bé hãy gọi điện ngay cho bố mẹ, để bố mẹ đưa bé đi bệnh viện khám cẩn thận.
|
Sơ cứu nhanh khi bị bỏng
Xử trí chung
Khi bị bỏng, nên lập tức ngâm ngay vào nước lạnh sạch nhưng không được dùng nước đá, nếu để lâu sẽ không còn tác dụng vì nước lạnh là giải pháp tối ưu cho tất cả các trường hợp bị bỏng nặng hay nhẹ. Nó làm sạch, mát những hóa chất dính trên vết bỏng, giảm đau, giảm nguy cơ gây sốc cho bệnh nhân.
Những trường hợp bỏng nặng như hóa chất, vôi… thì ngay lập tức cởi bỏ quần áo, đồ trang sức dính những chất này, dùng bàn chải hay chổi lông chà nhẹ cho hết sau đó xả nước lạnh, rồi bọc vùng bị bỏng bằng vải khô nhưng tránh không buộc chặt. Nếu bị bỏng ở mắt do bắn hóa chất thì phải rửa mắt ngay, ngâm mắt trong nước khoảng 20 phút cho sạch hóa chất, sau đó dùng vải mỏng băng mắt lại và đưa đi cấp cứu.
Bỏng điện cũng vô cùng nguy hiểm, khi phát hiện phải dùng vật cách điện (bao tay, que, gậy khô) ngắt điện ngay, bị bỏng điện nhìn bên ngoài có thể là rất nhẹ nhưng nguy cơ thương tổn lại rất cao có thể ăn sâu bên trong lớp biểu bì và ảnh hưởng đến nhịp tim, gây nguy hiểm đến tính mạng. Nhất là đối với trẻ nhỏ, các bậc cha mẹ phải thận trọng hơn với những vật dụng trong nhà như phích nước nóng, ổ điện, bếp… do còn nhỏ trẻ chưa hiểu rõ được mối nguy hiểm.
Tuyệt đối không tưới nước mắm hay dầu ăn lên vết phỏng vì như thế dễ làm vết thương bị nhiễm trùng rất nguy hiểm. Một số người khuyên dùng lòng trắng trứng gà bôi lên vết phỏng, điều này cũng giúp làm mát vùng da và mau lành vết thương nhưng chỉ có thể áp dụng cho vết phỏng nông, kín (da vẫn còn lành).
Xử trí vết phỏng nhẹ, vùng phỏng nhỏ
Với những vết bỏng nhỏ, nhẹ, như phỏng pô xe, phỏng nước sôi… thì sau khi ngâm nước (hoặc dội nước nhiều lần) có thể dùng thuộc mỡ đặc trị phỏng bôi phủ lên vết phỏng.
Băng lại bằng gạc sạch. Thoa thuốc bôi vào bông băng trước khi băng sẽ giúp trẻ đỡ đau hơn.
4. Thay băng sau 24 giờ và sau đó mỗi 2 – 3 ngày: Rửa vết thương bằng nước muối, bôi thuốc mỡ đặc trị (Biafin hoặc Silvirin) phủ kín vết phỏng và băng lại bằng gạc sạch.
Không nên chọc vỡ bóng nước, bôi đắp các loại chất bôi không rõ vì sẽ làm chậm lành vết thương và thêm nguy cơ nhiễm trùng. Đến cơ sở y tế nếu trong quá trình chăm sóc tại nhà có dấu hiệu nghi ngờ nhiễm trùng như da bị đỏ lên hoặc mất màu ở vùng da bình thường quanh vết phỏng, vết phỏng có mùi hôi, vết phỏng sưng nhiều, sốt hoặc kèm ớn lạnh.
Tóm lại: Mức độ tổn thương của bỏng nặng hay nhẹ phụ thuộc vào việc xử lý ban đầu, nếu xử lý sớm và đúng cách sẽ tránh được những hậu quả đáng tiếc xảy ra cho người bệnh.
Cách sơ cứu ngạt nước, chết đuối
Chết đuối là tình trạng thiếu oxy do cơ thể bị chìm trong nước. Người ta thống kê thấy khoảng 4/5 trường hợp chết đuối mà trong phổi có nước và 1/5 còn lại chết đuối nhưng phổi không có nước. Người bị chìm trong nước nhưng không bị ngạt được cứu tỉnh kịp thời thì được gọi là suýt chết đuối.
Sở dĩ có tình trạng chết đuối mà trong phổi không có nước là do người không biết bơi bất ngờ bị chìm trong nước, nạn nhân hoảng sợ khiến các phản xạ bị rối loạn làm cơ thể bị chìm, phản xạ co cơ nắp thanh quản và đóng khí quản lại làm nạn nhân không thở được dẫn đến thiếu oxy não và bất tỉnh. Do nắp thanh quản bị đóng nên nước cũng không vào phổi được. Đó cũng được gọi là chết đuối khô.
Cấp cứu nạn nhân chết đuối:
- Khi thấy một người đang hốt hoảng trên mặt nước hãy nhanh chóng thảy cho họ bất cứ thứ gì có thể giúp họ bám vào và nổi lên được. Nếu chỉ có một mình và 2 tay không, nếu không phải là một nhân viên cấp cứu nhiều kinh nghiệm thì bơi ra cứu nạn nhân là điều rất mạo hiểm dù là một tay bơi giỏi vì trong cơn hoảng loạn cực độ, nạn nhân thường có khuynh hướng vùng vẫy, níu kéo rất chặt gây khó khăn cho người cấp cứu và có nguy cơ làm chết đuối luôn cả hai. Nên ném cho nạn nhân một phao nổi trước cho nạn nhân bám vào, sau đó mới cho nạn nhân bám vào ngưới cứu hộ.
- Sau khi đem nạn nhân lên bờ, hãy nhanh chóng gọi điện thoại số cấp cứu 115 và tiến hành làm hô hấp nhân tạo bằng phương pháp miệng qua miệng vì đó là phương pháp hữu hiệu nhất. Não người sẽ bị tổn thương hoặc chết nếu nạn nhân ngưng thở từ 4-6 phút.



- Không nên cố tìm cách cho nước trong phổi nạn nhân chảy hết ra ngoài bằng cách xốc nước (vác nạn nhân chạy vòng vòng cho nước chảy ra) vì như thế sẽ bỏ lỡ thời gian vàng cho việc làm hồi sức cấp cứu tim phổi mà chỉ cần chậm trễ 4 phút thôi là não có nguy cơ bị chết rồi! Trong quá trình hồi sức cấp cứu tim phổi, nước trong phổi sẽ tự động thoát ra ngoài. Nếu là nước sông, hồ thì nước sẽ thấm vào hệ tuần hoàn rất nhanh do hiện tượng thẩm thấu (nước sông có nồng độ loãng hơn máu).
- Khi làm xoa bóp tim ngoài lồng ngực, cần chú ý không quá mạnh bạo vì có thể làm gãy xương sườn nạn nhân.
Đề phòng:
- Không nên nhảy xuống vùng nước mà không biết nơi đó nông hay sâu, có lối thoát khi gặp nguy hiểm hay không.
- Khi đi bơi nên đi chung với những người bơi giỏi và nên mang theo phao khi đi bơi và đi tàu thuyền.
- Không ăn no, không uống rượu trước khi xuống nước.
- Chỉ đi bơi ở các hồ bơi bảo đảm an toàn và có nhân viên cứu hộ giám sát.
- Trẻ em khi bơi phải được người lớn giám sát thường xuyên và không được rời mắt để làm công việc khác như đọc sách, tán chuyện gẫu, chơi bài…
- Ở nhà có trẻ nhỏ tốt nhất không nên để những lu nước, thùng nước, nếu bắt buộc phải có (như vùng phải tích trữ nước ngọt để dùng) nên đậy thật chặt để trẻ em không mở nắp được.
- Nhà khá giả có hồ bơi nên rào kín xung quanh và cửa có khóa để trẻ em không mở cửa được, có hệ thống báo động khi trẻ em vào.
- Nên cho trẻ tập bơi sớm (trên 4 tuổi).
Tóm lại: chết đuối là một tai nạn thường gặp nhất là nước có nhiều sông rạch và bờ biển dài như ở nước ta. Tuy nhiên tai nạn này có thể phòng chống dễ dàng nếu chúng ta hiểu biết về nó và mạng sống của một người đôi khi phụ thuộc vào vài phút phù du đầu tiên của cấp cứu hối sức ban đầu. (Medic-Lab)
Sở dĩ có tình trạng chết đuối mà trong phổi không có nước là do người không biết bơi bất ngờ bị chìm trong nước, nạn nhân hoảng sợ khiến các phản xạ bị rối loạn làm cơ thể bị chìm, phản xạ co cơ nắp thanh quản và đóng khí quản lại làm nạn nhân không thở được dẫn đến thiếu oxy não và bất tỉnh. Do nắp thanh quản bị đóng nên nước cũng không vào phổi được. Đó cũng được gọi là chết đuối khô.
Cấp cứu nạn nhân chết đuối:
- Khi thấy một người đang hốt hoảng trên mặt nước hãy nhanh chóng thảy cho họ bất cứ thứ gì có thể giúp họ bám vào và nổi lên được. Nếu chỉ có một mình và 2 tay không, nếu không phải là một nhân viên cấp cứu nhiều kinh nghiệm thì bơi ra cứu nạn nhân là điều rất mạo hiểm dù là một tay bơi giỏi vì trong cơn hoảng loạn cực độ, nạn nhân thường có khuynh hướng vùng vẫy, níu kéo rất chặt gây khó khăn cho người cấp cứu và có nguy cơ làm chết đuối luôn cả hai. Nên ném cho nạn nhân một phao nổi trước cho nạn nhân bám vào, sau đó mới cho nạn nhân bám vào ngưới cứu hộ.
- Sau khi đem nạn nhân lên bờ, hãy nhanh chóng gọi điện thoại số cấp cứu 115 và tiến hành làm hô hấp nhân tạo bằng phương pháp miệng qua miệng vì đó là phương pháp hữu hiệu nhất. Não người sẽ bị tổn thương hoặc chết nếu nạn nhân ngưng thở từ 4-6 phút.
Với ngạt nước, sơ cứu tại chỗ và đúng kỹ thuật là những yếu tố quan trọng nhất, quyết định đến sự sống còn và khả năng bị di chứng não của người bị nạn.
- Trường hợp nạn nhân đã ngừng thở, ngừng tim thì nhanh chóng dốc ngược đầu nạn nhân cho nước trong đường thở thoát ra hết; sau đó đặt nạn nhân trên mặt phẳng cứng, ngửa cổ nạn nhân ra sau, móc hết đàm nhớt, dị vật trong miệng nạn nhân ra, một tay đặt lên trán nạn nhân, bịt mũi nạn nhân bằng bằng ngón trỏ và ngón cái, sau đó hít sâu, áp miệng người cấp cứu vào miệng nạn nhân thổi 2 hơi đầy; để lồng ngực tự xẹp và thổi tiếp lần thứ hai. Thực hiện cho đến khi nạn nhân thở được hoặc có xe cấp cứu đến.Nếu nạn nhân bị ngưng tim nên tiến hành xoa bóp tim ngoài lồng ngực song song với hô hấp nhân tạo.
- Đặt người bị nạn nằm ở chỗ khô ráo, thoáng khí. Nếu bất tỉnh, hãy kiểm tra xem có còn thở không bằng cách quan sát sự di động của lồng ngực. Nếu lồng ngực không di động tức là đã ngưng thở; thổi ngạt miệng qua miệng 2 cái chậm. Nếu sau đó vẫn chưa thở lại được hoặc còn tím tái và hôn mê thì xem như tim đã ngưng đập, cần ấn tim ngoài lồng ngực ngay. Ấn vào vùng nửa dưới xương ức theo cách như sau:
- Dùng 2 ngón tay cái (đối với trẻ dưới 1 tuổi) ấn ở vị trí giữa và dưới đường nối hai đầu vú 1 khoát ngón tay (tức khoảng bằng bề ngang một ngón tay).
- Đặt người bị nạn nằm ở chỗ khô ráo, thoáng khí. Nếu bất tỉnh, hãy kiểm tra xem có còn thở không bằng cách quan sát sự di động của lồng ngực. Nếu lồng ngực không di động tức là đã ngưng thở; thổi ngạt miệng qua miệng 2 cái chậm. Nếu sau đó vẫn chưa thở lại được hoặc còn tím tái và hôn mê thì xem như tim đã ngưng đập, cần ấn tim ngoài lồng ngực ngay. Ấn vào vùng nửa dưới xương ức theo cách như sau:
- Dùng 2 ngón tay cái (đối với trẻ dưới 1 tuổi) ấn ở vị trí giữa và dưới đường nối hai đầu vú 1 khoát ngón tay (tức khoảng bằng bề ngang một ngón tay).
Đặt nạn nhân nằm nghiêng
- Dùng 1 bàn tay (đối với trẻ từ 1-8 tuổi) hoặc 2 bàn tay đặt chồng lên nhau (đối với trẻ hơn 8 tuổi và người lớn) ấn vào phía trên mỏm ức 2 khoát ngón tay.
- Phối hợp ấn tim và thổi ngạt theo tỷ lệ 5/1 (đối với trẻ ) hoặc 15/2 (đối với người lớn). Cần lưu ý là vẫn phải tiếp tục thực hiện các động tác cấp cứu này trên đường chuyển người bị nạn tới cơ sở y tế, cho đến khi tự thở lại được hoặc chắc chắn đã chết.- Việc cấp cứu này đôi khi phải mất hàng giờ hoặc lâu hơn. Nếu lồng ngực còn di động tức là còn tự thở được, hãy đặt nằm ở tư thế an toàn, nghĩa là nằm nghiêng một bên để nếu nôn ói thì chất nôn dễ dàng thoát ra ngoài và không trào ngược vào phổi, gây viêm phổi.
Chú ý:- Không nên cố tìm cách cho nước trong phổi nạn nhân chảy hết ra ngoài bằng cách xốc nước (vác nạn nhân chạy vòng vòng cho nước chảy ra) vì như thế sẽ bỏ lỡ thời gian vàng cho việc làm hồi sức cấp cứu tim phổi mà chỉ cần chậm trễ 4 phút thôi là não có nguy cơ bị chết rồi! Trong quá trình hồi sức cấp cứu tim phổi, nước trong phổi sẽ tự động thoát ra ngoài. Nếu là nước sông, hồ thì nước sẽ thấm vào hệ tuần hoàn rất nhanh do hiện tượng thẩm thấu (nước sông có nồng độ loãng hơn máu).
- Khi làm xoa bóp tim ngoài lồng ngực, cần chú ý không quá mạnh bạo vì có thể làm gãy xương sườn nạn nhân.
Đề phòng:
- Không nên nhảy xuống vùng nước mà không biết nơi đó nông hay sâu, có lối thoát khi gặp nguy hiểm hay không.
- Khi đi bơi nên đi chung với những người bơi giỏi và nên mang theo phao khi đi bơi và đi tàu thuyền.
- Không ăn no, không uống rượu trước khi xuống nước.
- Chỉ đi bơi ở các hồ bơi bảo đảm an toàn và có nhân viên cứu hộ giám sát.
- Trẻ em khi bơi phải được người lớn giám sát thường xuyên và không được rời mắt để làm công việc khác như đọc sách, tán chuyện gẫu, chơi bài…
- Ở nhà có trẻ nhỏ tốt nhất không nên để những lu nước, thùng nước, nếu bắt buộc phải có (như vùng phải tích trữ nước ngọt để dùng) nên đậy thật chặt để trẻ em không mở nắp được.
- Nhà khá giả có hồ bơi nên rào kín xung quanh và cửa có khóa để trẻ em không mở cửa được, có hệ thống báo động khi trẻ em vào.
- Nên cho trẻ tập bơi sớm (trên 4 tuổi).
Tóm lại: chết đuối là một tai nạn thường gặp nhất là nước có nhiều sông rạch và bờ biển dài như ở nước ta. Tuy nhiên tai nạn này có thể phòng chống dễ dàng nếu chúng ta hiểu biết về nó và mạng sống của một người đôi khi phụ thuộc vào vài phút phù du đầu tiên của cấp cứu hối sức ban đầu. (Medic-Lab)
Ai cũng cần biết CPR để cứu người
Hiệp Hội Tim Hoa Kỳ (AHA) vừa đưa ra một khuyến cáo kêu gọi mọi người, dù là có được huấn luyện hay chưa, hành động tức khắc lúc cần cấp cứu như vậy.
Bác sĩ Michael R. Sayre, giáo sư y khoa cấp cứu ở Đại Học Ohio, tác giả chính của bài khuyến cáo này cho biết: Tốt nhất nên ấn xuống 100 lần một phút, đủ mạnh để lồng ngực lõm xuống 5 cm (02 inches). CPR có thể tăng tỷ lệ sống sót sau khi bị tim ngừng đập lên gấp đôi, tuy nhiên chỉ có một phần ba số người bị đột quỵ vì tim ngừng đập được những người chung quanh áp dụng CPR để cấp cứu.
Khuyến cáo trên đây không áp dụng cho trẻ em bị tim ngừng đập, hoặc người chết đuối, hoặc người bị ngộ độc vì thuốc quá liều; những trường hợp này có thể cần thổi vào miệng bịnh nhân (hô hấp nhân tạo – rescue breathing) để giúp cho họ thở.
Xem Video thực hành CPR người lớn:
CPR trẻ em:
- Kiểm tra tình trạng
- Gọi cấp cứu: 115 -> Nhồi tim 30 lần -> Thổi hơi 2 lần -> Nhồi tiếp 30 lần -> tiếp tục thổi hơi và nhồi tim trong khi chờ cấp cứu.
Các cách cầm máu tạm thời
Video hướng dẫn cách băng vết thương bị chảy máu
Đây là một kỹ năng xử trí cấp cứu rất quan trọng và cần thiết để cứu sống nạn nhân và hạn chế những biến chứng của vết thương. Mục đích của việc cầm máu tạm thời là nhanh chóng làm ngưng chảy máu vì nếu mất máu nhiều, nạn nhân sẽ bị sốc nặng.
1. Băng ép
Đặt một lớp gạc và bông thấm nước phủ kín vết thương, sau đó đặt một lớp bông mỡ (có tác dụng đàn hồi và không thấm nước) dày lên trên; lớp này càng dày thì tạo được sự nén ép càng cao; sức ép chỉ tập trung ở vị trí có lớp bông mỡ nên không cản trở tuần hoàn chung của chi thể. Băng kiểu vòng xoắn hoặc số 8, các vòng băng tương đối chặt, tốt nhất là dùng băng thun. Đây là phương pháp cầm máu cơ bản có thể áp dụng cho mọi vết thương mà không sợ các tai biến.
2. Băng nút
Là cách băng ép có dùng thêm bấc gạc để nhét nút vào vết thương. Nhét nút càng chặt thì sức ép càng tăng và tác dụng cầm máu càng tốt. Băng nút thích hợp với các vết thương chảy máu động mạch ở sâu hoặc những vùng đặc biệt của cơ thể (như vùng cổ, vùng chậu) mà băng ép thông thường không phát huy được tác dụng cầm máu.
Cách băng nút: Dùng kẹp cầm máu hoặc nỉa nhét gạc vô khuẩn (tốt nhất là khâu sẵn thành cuộn bấc dài 2 cm x 50 cm) nhồi sâu vào tận đáy vết thương, ấn chặt để có tác dụng đè ép, cầm máu; sau đó tiến hành băng ép như trên.
Nhược điểm của băng nút là khi nhét bấc gạc, ta có thể đưa cả dị vật và các mô dập nát vào sâu, gây ô nhiễm vết thương. Do đó, chỉ nên băng nút khi băng ép không hiệu quả và không thể áp dụng được các phương pháp cầm máu khác.
3. Gấp chi tối đa
Là biện pháp cầm máu đơn giản, rất tốt mà mỗi người có thể tự làm ngay sau khi bị thương để cầm máu. Khi chi thể gấp tối đa, các động mạch bị gấp và đè ép bởi các khối cơ bao quanh, có thể làm máu ngưng chảy. Tuy nhiên, phương pháp này không kéo dài được mà chỉ là biện pháp rất tạm thời, phải làm ngay khi bị thương rồi sau đó bổ sung bằng các biện pháp khác. Chi thể bị gấp tối đa thì dễ mỏi và nếu có tổn thương gãy xương đi kèm thì không thực hiện được. Cách làm tuỳ theo vị trí tổn thương:
- Cẳng tay, bàn tay: Gấp cẳng tay vào cánh tay. Nếu phải giữ lâu, có thể cố định tư thế gấp tối đa bằng một vài vòng băng hoặc dùng thắt lưng ghì chặt cổ tay vào phần trên cánh tay.
- Cánh tay: Dùng một vật tày có đường kính chừng 10 cm làm con chèn, kẹp chặt vào nách ở phía trên chỗ chảy máu rồi buộc chặt cánh tay vào thân người.
- Cẳng chân hoặc bàn chân: Nằm ngửa hoặc ngồi, dùng hai tay kéo mạnh cẳng chân ép vào đùi, có thể đệm thêm một cuộn băng vào khoeo.
- Đùi: Nằm ngửa, dùng hai tay kéo mạnh đầu gối để ép chặt đùi vào thân người, có thể dùng dây lưng để ghì mạnh đùi vào thân người.
4. Ấn động mạch
Là động tác dùng ngón tay đè chặt vào động mạch trên đường đi của động mạch từ tim đến vết thương nhằm làm động mạch bị ép chặt giữa ngón tay và nền xương. Đây là biện pháp cầm máu tạm thời rất hiệu nghiệm, chắc chắn mà ít gây đau đớn, không gây rối loạn tuần hoàn ở các chi bị thương, nhưng đòi hỏi người làm phải nắm chắc kiến thức giải phẫu về đường đi của các động mạch.
Phương pháp này có nhược điểm là không giữ lâu được vì người ấn nhanh chóng bị mỏi tay. Do đó, đây là động tác xử trí đầu tiên của y tá đối với một vết thương có chảy máu động mạch vừa hoặc lớn. Sau đó, phải sử dụng các biện pháp lâu bền hơn để đảm bảo cầm máu và chuyển nạn nhân về tuyến sau.
Có thể chỉ dùng một ngón tay cái hoặc bốn ngón tay còn lại, có khi sử dụng cả hai ngón tay cái, thậm chí cả nắm tay. Động tác ấn đòi hỏi hết sức khẩn trương nên không cần cởi quần áo người bị thương. Cách làm tuỳ theo vị trí chảy máu:
- Bàn tay và ngón tay: Dùng 2 ngón cái ấn vào động mạch quay (nơi thường bắt mạch trên cổ tay) và động mạch trụ (phía bên kia cổ tay).
- Cẳng tay hoặc phía dưới cánh tay: Ấn động mạch cánh tay (ở mặt trong cánh tay, phía trên vết thương) bằng ngón tay cái hoặc bốn ngón còn lại. Nếu máu còn chảy thì xê dịch ngón tay ra phía trước hoặc phía sau cho tới khi máu ngưng chảy.
- Phía trên cánh tay hoặc hố nách: Dùng ngón tay cái ấn mạnh và sâu vào hố trên xương đòn (ở sát giữa bờ sau của xương đòn) để động mạch bị kẹp vào giữa ngón tay cái và mặt trên xương sườn số 1.
- Đùi, cẳng chân hoặc bàn chân: Dùng 2 ngón tay cái ấn mạnh vào giữa nếp bẹn, các ngón còn lại ôm lấy mặt ngoài và trong của đùi. Có thể thay 2 ngón tay cái bằng cuộn băng chèn vào giữa nếp bẹn.
- Má: Dùng ngón tay cái ấn mạnh vào động mạch ở cằm, cách góc xương hàm dưới khoảng 3 cm về phía trước
5. Băng chèn
Cũng là một cách đè ép động mạch trên đường đi của nó từ tim tới vết thương, nhưng đè bằng một vật tương đối rắn. Con chèn được đặt càng sát vết thương càng tốt, sau đó băng cố định con chèn tại chỗ bằng nhiều vòng băng xiết tương đối chặt theo kiểu vòng tròn hoặc số 8. Các loại vật thể làm con chèn là cuộn băng, miếng gạc cuộn chặt, nút bấc, lọ thuốc nhỏ (kiểu lọ penicillin) hoặc khúc tre, gỗ…, đường kính khoảng 2-3 cm, dài 4-5 cm. Ưu điểm của băng chèn là cầm máu tốt các vết thương động mạch. Những vị trí cụ thể thường áp dụng băng chèn:
- Cánh tay: Khi có vết thương chảy máu ở cánh tay và cẳng tay, đặt một con chèn ở mặt trong cánh tay, phía trên vết thương rồi cố định bằng các vòng băng xiết tương đối chặt. Khi máu tại vết thương còn chảy rất ít hoặc ngưng chảy là được; nếu bắt mạch cổ tay không thấy là đã đè ép được động mạch.
- Hố nách: Đặt một con chèn sâu vào trong hố nách (tốt nhất là dùng một cuộn băng vải) rồi băng tròn vài vòng để đè ép con chèn vào đầu trên động mạch cánh tay, băng tiếp các vòng băng kiểu số 8 để cố định.
- Cổ chân: Áp dụng khi có vết thương chảy máu nhiều ở bàn chân mà băng ép không hiệu quả. Đặt hai con chèn ở cổ chân, một ở phía sau dưới mắt cá trong, một ở phía trước cổ chân theo đường kéo dài ngược lên từ khe ngón chân cái với ngón thứ hai. Băng ép để cố định con chèn.
- Khoeo: Áp dụng khi có chảy máu nhiều ở cẳng chân. Đặt một con chèn có đáy to (tốt nhất là một cuộn băng vải cuộn chặt) vào giữa khoeo, băng vòng tròn vài vòng để đè ép con chèn vào đúng đường đi của động mạch khoeo rồi băng kiểu số 8 để cố định con chèn.
- Nếp bẹn: Áp dụng khi có thương tổn chảy máu động mạch đùi (ở mặt trong đùi). Dùng một cuộn băng to đặt ở giữa nếp bẹn làm con chèn (ở vị trí này, động mạch đùi nằm nông nên có thể dễ dàng bắt mạch để xác định vị trí) dùng tay cố định con chèn ngay phía trên động mạch đùi rồi băng cố định.
- Cổ: Cần có hai người làm. Một người dùng cuộn băng vải làm con chèn ấn vào động mạch cảnh ở phía dưới vết thương (theo bờ trước của khối cơ lớn nhất vùng cổ bên). Người thứ hai đặt một nẹp tre hoặc gỗ để bắc cầu từ đầu tới mặt ngoài vai (phía đối xứng với bên bị thương) rồi cố định chắc hai đầu nẹp. Sau đó, dùng nẹp làm điểm tựa để băng ép con chèn vào đường đi của động mạch cảnh đã được xác định. Như vậy, máu vẫn có thể lên não qua động mạch cảnh ở phía đối diện (phía dưới nẹp). Khi không có điều kiện đặt nẹp, có thể dùng tay phía đối diện của người bị thương thay cho nẹp, sau đó khẩn trương chuyển về tuyến sau để xử trí.
Đây là một kỹ năng xử trí cấp cứu rất quan trọng và cần thiết để cứu sống nạn nhân và hạn chế những biến chứng của vết thương. Mục đích của việc cầm máu tạm thời là nhanh chóng làm ngưng chảy máu vì nếu mất máu nhiều, nạn nhân sẽ bị sốc nặng.
1. Băng ép
2. Băng nút
Là cách băng ép có dùng thêm bấc gạc để nhét nút vào vết thương. Nhét nút càng chặt thì sức ép càng tăng và tác dụng cầm máu càng tốt. Băng nút thích hợp với các vết thương chảy máu động mạch ở sâu hoặc những vùng đặc biệt của cơ thể (như vùng cổ, vùng chậu) mà băng ép thông thường không phát huy được tác dụng cầm máu.
Cách băng nút: Dùng kẹp cầm máu hoặc nỉa nhét gạc vô khuẩn (tốt nhất là khâu sẵn thành cuộn bấc dài 2 cm x 50 cm) nhồi sâu vào tận đáy vết thương, ấn chặt để có tác dụng đè ép, cầm máu; sau đó tiến hành băng ép như trên.
Nhược điểm của băng nút là khi nhét bấc gạc, ta có thể đưa cả dị vật và các mô dập nát vào sâu, gây ô nhiễm vết thương. Do đó, chỉ nên băng nút khi băng ép không hiệu quả và không thể áp dụng được các phương pháp cầm máu khác.
3. Gấp chi tối đa
Là biện pháp cầm máu đơn giản, rất tốt mà mỗi người có thể tự làm ngay sau khi bị thương để cầm máu. Khi chi thể gấp tối đa, các động mạch bị gấp và đè ép bởi các khối cơ bao quanh, có thể làm máu ngưng chảy. Tuy nhiên, phương pháp này không kéo dài được mà chỉ là biện pháp rất tạm thời, phải làm ngay khi bị thương rồi sau đó bổ sung bằng các biện pháp khác. Chi thể bị gấp tối đa thì dễ mỏi và nếu có tổn thương gãy xương đi kèm thì không thực hiện được. Cách làm tuỳ theo vị trí tổn thương:
- Cẳng tay, bàn tay: Gấp cẳng tay vào cánh tay. Nếu phải giữ lâu, có thể cố định tư thế gấp tối đa bằng một vài vòng băng hoặc dùng thắt lưng ghì chặt cổ tay vào phần trên cánh tay.
- Cánh tay: Dùng một vật tày có đường kính chừng 10 cm làm con chèn, kẹp chặt vào nách ở phía trên chỗ chảy máu rồi buộc chặt cánh tay vào thân người.
- Cẳng chân hoặc bàn chân: Nằm ngửa hoặc ngồi, dùng hai tay kéo mạnh cẳng chân ép vào đùi, có thể đệm thêm một cuộn băng vào khoeo.
- Đùi: Nằm ngửa, dùng hai tay kéo mạnh đầu gối để ép chặt đùi vào thân người, có thể dùng dây lưng để ghì mạnh đùi vào thân người.
4. Ấn động mạch
Là động tác dùng ngón tay đè chặt vào động mạch trên đường đi của động mạch từ tim đến vết thương nhằm làm động mạch bị ép chặt giữa ngón tay và nền xương. Đây là biện pháp cầm máu tạm thời rất hiệu nghiệm, chắc chắn mà ít gây đau đớn, không gây rối loạn tuần hoàn ở các chi bị thương, nhưng đòi hỏi người làm phải nắm chắc kiến thức giải phẫu về đường đi của các động mạch.
Phương pháp này có nhược điểm là không giữ lâu được vì người ấn nhanh chóng bị mỏi tay. Do đó, đây là động tác xử trí đầu tiên của y tá đối với một vết thương có chảy máu động mạch vừa hoặc lớn. Sau đó, phải sử dụng các biện pháp lâu bền hơn để đảm bảo cầm máu và chuyển nạn nhân về tuyến sau.
Có thể chỉ dùng một ngón tay cái hoặc bốn ngón tay còn lại, có khi sử dụng cả hai ngón tay cái, thậm chí cả nắm tay. Động tác ấn đòi hỏi hết sức khẩn trương nên không cần cởi quần áo người bị thương. Cách làm tuỳ theo vị trí chảy máu:
- Bàn tay và ngón tay: Dùng 2 ngón cái ấn vào động mạch quay (nơi thường bắt mạch trên cổ tay) và động mạch trụ (phía bên kia cổ tay).
- Cẳng tay hoặc phía dưới cánh tay: Ấn động mạch cánh tay (ở mặt trong cánh tay, phía trên vết thương) bằng ngón tay cái hoặc bốn ngón còn lại. Nếu máu còn chảy thì xê dịch ngón tay ra phía trước hoặc phía sau cho tới khi máu ngưng chảy.
- Phía trên cánh tay hoặc hố nách: Dùng ngón tay cái ấn mạnh và sâu vào hố trên xương đòn (ở sát giữa bờ sau của xương đòn) để động mạch bị kẹp vào giữa ngón tay cái và mặt trên xương sườn số 1.
- Đùi, cẳng chân hoặc bàn chân: Dùng 2 ngón tay cái ấn mạnh vào giữa nếp bẹn, các ngón còn lại ôm lấy mặt ngoài và trong của đùi. Có thể thay 2 ngón tay cái bằng cuộn băng chèn vào giữa nếp bẹn.
- Má: Dùng ngón tay cái ấn mạnh vào động mạch ở cằm, cách góc xương hàm dưới khoảng 3 cm về phía trước
5. Băng chèn
Cũng là một cách đè ép động mạch trên đường đi của nó từ tim tới vết thương, nhưng đè bằng một vật tương đối rắn. Con chèn được đặt càng sát vết thương càng tốt, sau đó băng cố định con chèn tại chỗ bằng nhiều vòng băng xiết tương đối chặt theo kiểu vòng tròn hoặc số 8. Các loại vật thể làm con chèn là cuộn băng, miếng gạc cuộn chặt, nút bấc, lọ thuốc nhỏ (kiểu lọ penicillin) hoặc khúc tre, gỗ…, đường kính khoảng 2-3 cm, dài 4-5 cm. Ưu điểm của băng chèn là cầm máu tốt các vết thương động mạch. Những vị trí cụ thể thường áp dụng băng chèn:
- Cánh tay: Khi có vết thương chảy máu ở cánh tay và cẳng tay, đặt một con chèn ở mặt trong cánh tay, phía trên vết thương rồi cố định bằng các vòng băng xiết tương đối chặt. Khi máu tại vết thương còn chảy rất ít hoặc ngưng chảy là được; nếu bắt mạch cổ tay không thấy là đã đè ép được động mạch.
- Hố nách: Đặt một con chèn sâu vào trong hố nách (tốt nhất là dùng một cuộn băng vải) rồi băng tròn vài vòng để đè ép con chèn vào đầu trên động mạch cánh tay, băng tiếp các vòng băng kiểu số 8 để cố định.
- Cổ chân: Áp dụng khi có vết thương chảy máu nhiều ở bàn chân mà băng ép không hiệu quả. Đặt hai con chèn ở cổ chân, một ở phía sau dưới mắt cá trong, một ở phía trước cổ chân theo đường kéo dài ngược lên từ khe ngón chân cái với ngón thứ hai. Băng ép để cố định con chèn.
- Khoeo: Áp dụng khi có chảy máu nhiều ở cẳng chân. Đặt một con chèn có đáy to (tốt nhất là một cuộn băng vải cuộn chặt) vào giữa khoeo, băng vòng tròn vài vòng để đè ép con chèn vào đúng đường đi của động mạch khoeo rồi băng kiểu số 8 để cố định con chèn.
- Nếp bẹn: Áp dụng khi có thương tổn chảy máu động mạch đùi (ở mặt trong đùi). Dùng một cuộn băng to đặt ở giữa nếp bẹn làm con chèn (ở vị trí này, động mạch đùi nằm nông nên có thể dễ dàng bắt mạch để xác định vị trí) dùng tay cố định con chèn ngay phía trên động mạch đùi rồi băng cố định.
- Cổ: Cần có hai người làm. Một người dùng cuộn băng vải làm con chèn ấn vào động mạch cảnh ở phía dưới vết thương (theo bờ trước của khối cơ lớn nhất vùng cổ bên). Người thứ hai đặt một nẹp tre hoặc gỗ để bắc cầu từ đầu tới mặt ngoài vai (phía đối xứng với bên bị thương) rồi cố định chắc hai đầu nẹp. Sau đó, dùng nẹp làm điểm tựa để băng ép con chèn vào đường đi của động mạch cảnh đã được xác định. Như vậy, máu vẫn có thể lên não qua động mạch cảnh ở phía đối diện (phía dưới nẹp). Khi không có điều kiện đặt nẹp, có thể dùng tay phía đối diện của người bị thương thay cho nẹp, sau đó khẩn trương chuyển về tuyến sau để xử trí.
BS Huy Anh
Lưu ý khi sơ cứu tai nạn giao thông
- Đặt bệnh nhân (BN) ở tư thế nằm nghiêng để kiểm soát đường thở.
- Phải cố định cột sống và hai tay hai chân BN (nếu có phương tiện).
- Phải di chuyển BN đến trung tâm y tế gần nhất ở tư thế nằm nghiêng.
- Không đặt BN nằm ngửa.
- Không lấy bỏ bất cứ một dị vật nào ở da đầu và xương sọ.
- Không dùng tay nâng đầu lên cao làm gập cổ BN, có thể gây tổn thương cột sống cổ.
- Không di chuyển BN khỏi hiện trường khi chưa cố định.
- Không di chuyển BN bằng xe đạp, xe gắn máy – rất nguy hiểm, nhiều trường hợp gãy cột sống cổ do chở đi bị xóc, chết trước khi vào viện do liệt hô hấp.
- Không đưa bất cứ một vật lạ gì vào miệng BN, sau chấn thương sọ não có thể xảy ra động kinh, có người dùng nước, chanh nặn vào khiến BN có thể chết do sặc, ngộp thở.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét